Home | Lịch nghỉ tết 2024

Bí quyết nấu mâm cơm ba ngày Tết Nguyên Đán

Mâm cơm đầu năm mới thể hiện sự no đủ, đầm ấm của một gia đình người Việt. Mâm cơm ngày tết thể hiện mong ước năm mới an lành, ấm no, thành công cũng như hanh phúc gia đình. Chính vì thể, mâm cơm ngày Tết luôn được bỏ nhiều công sức và tỉ mỉ.

Theo phong tục Tết Nguyên Đán của người Việt Nam, mâm cơm đầu năm đầy đủ phải có bốn bát:bát ninh, bát măng hầm giò lợn, bát mọc, bát miến và bốn đĩa:thịt gà (thịt lợn), giò (chả), nem thính (có thể thay bằng đĩa xào), dưa muối. Kế bên đó là một đĩa xôi (hoặc bánh chưng) và chén nước chấm, tổng cộng là mười món. Tượng trương cho số mười của sự tròn đầy, viên mãn. Đặc biệt, đối với người miền Bắc, mâm cơm được chuẩn bị rất kĩ càng và công phu. Từng món ăn phải đạt đủ các yếu tố chất lương mới được xếp chung vào mâm. Ví dụ thịt gà phải là thịt gà trống choai, được chọn lựa cẩn thận: mào gà, hình dáng gà, đặc biệt là cựa gà. Người Việt Nam quan niệm: cựa gà có đẹp thì cả năm mới sung túc, ấm no. Gà được thịt để cúng giao thừa, sau đó chia cho con cháu ăn hưởng lộc.

Thịt lợn phải chọn được miếng thịt lợn đầy đặn, có đủ nạc, mỡ (thường 1/3 mỡ, 2/3 nạc), dầy mình, vuông vắn.

Giò có thể là giò nạc, giò lụa, miếng giò chắc, thơm ngọt. Giò được gói tròn. Trong mâm cơm có bánh chưng vuông tượng trưng cho đất, khoanh giò tròn tượng trưng cho trời, thể hiện sự hoà hợp, cân bằng giữa trời đất và con người. Âm dương cân bằng, gia chủ mới mạnh khoẻ, con cháu ngoan hiền, làm ăn phát đạt.

Mâm cơm đầu năm còn có đĩa xôi. Xôi đầu năm mới phải là xôi gấc hoặc xôi đỗ. Màu đỏ của gấc, màu vàng ruộm của đỗ thể hiện niềm tin, hi vọng của gia chủ vào một năm mới làm ăn thành công, gặp nhiều may mắn.

Các cụ có câu “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ”. Trong mâm cơm ngày Tết không thể thiếu được đĩa dưa hành vàng óng, thơm lừng. Dưa hành không chỉ để ăn kèm với thịt luộc mà còn là một món ăn rất tốt cho sức khoẻ trong dịp Tết. Thông thường, trong dịp Tết, mọi người thường ăn rất nhiều thịt, đồ nếp, đồ ngọt vì vậy đĩa dưa hành chính là một món ăn rất tốt cho hệ tiêu hoá, đảm bảo cho cả gia đình có một năm mới khoẻ mạnh.

Mâm cơm ngày Tết phải có đầy đủ các vị: vị mặn của nước chấm, vị cay của ớt, vị chua của đĩa dưa hành, vị ngọt của bánh … tất cả tạo nên một mâm cơm sum vầy no đủ.

Tại sao phải có đủ bốn bát, bốn đĩa trong mâm cơm đầu năm? Thực ra, con số bốn là con số tượng trưng cho sự vuông vắn, cân đối, đầy đặn, vững chãi. Ngoài ra còn có đĩa xôi (bánh chưng) và bát nước chấm là mười. Số mười tượng trưng cho sự tròn đầy, viên mãn. Mâm cơm đầu năm mới đã thể hiện tất cả những mong ước của gia chủ về một năm mới an lành, ấm no, thành công và hạnh phúc.

Mâm cơm đầu năm mới trước để cúng thần linh, ông bà tổ tiên để xin lộc của thần linh, tiên tổ. Hết tuần hương, mâm cơm được dọn cho cả nhà cùng ăn, với ý nghĩa hưởng lộc của thần linh, tổ tiên phù hộ, cả năm không ốm đau, con cháu học hành tấn tới, làm ăn phát đạt, gia đình thuận hoà, tránh mọi tai ương.

Related Posts :

Chưng mâm ngũ quả hợp phong thủy ngày Tết

Ngày Tết, mâm ngũ quả được xem là quan trọng trong thờ cúng tổ tiên. Hiện có nhiều quan niệm về bày mâm ngũ quả. Những lý giải ở các góc độ khác nhau sẽ giúp có mâm ngũ quả đẹp và hợp phong thủy ngày Tết.

Ý nghĩa của mâm ngũ quả

Theo ông Lê Quang Khang, chuyên gia văn hóa, Hội Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, mâm ngũ quả ngày Tết có ý nghĩa bao trùm là thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, thể hiện lòng thành kính đối với các bậc tổ tiên. Mâm ngũ quả cúng ngày Tết cũng là yếu tố thể hiện thành quả làm việc của một năm. Ngoài ra, tùy ở những góc độ mâm ngũ quả còn có các ý nghĩa khác.

Mâm ngũ quả gồm 5 loại quả có 5 màu sắc khác nhau. Con số 5 thể hiện ước muốn của người Việt Nam mới sẽ đạt ngũ phúc lâm môn: Phú, quý, thọ, khang, ninh. 5 màu sắc thể hiện ý nghĩa nguồn của cải năm phương đưa về kính lên tổ tiên. Như nải chuối có màu xanh tượng trưng Đông phương, quả bưởi có màu vàng tượng trưng Trung phương, quả hồng có màu đỏ tượng trưng Nam phương, quả lê có màu trắng tượng trưng Tây phương và một loại quả có màu sẫm khác tượng trưng Bắc phương. Năm màu sắc này cũng tượng trưng ngũ hành trong vũ trụ là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Con số 5 trong mâm ngũ quả còn thể hiện lịch sử tín ngưỡng dân tộc. Ví dụ, đạo Phật có ngũ giới, tức 5 điều quy định của đạo Phật. Đạo Lão với ngũ hành. Đạo Khổng là ngũ thường. Nguyên nhân chọn ngũ quả thay vì chọn các yếu tố khác bởi người xưa quan niệm hoa quả có nhiều hạt, múi, chùm. Điều này thể hiện mong ước sang năm mới sẽ sinh sôi phát triển cả trong sản xuất lẫn cuộc đời.

Số chẵn và lẻ

Theo chuyên gia phong thủy Trọng Hùng, hiện nay mâm ngũ quả cũng được bày biện phù hợp với tùy từng địa phương với đặc trưng về khí hậu, sản vật và quan niệm riêng. Ví dụ, mâm ngũ quả của người Bắc bao giờ cũng có nải chuối – thể hiện sự che chở của đất trời cho con người. Nhưng ngườiMiền Nam lại cho rằng từ chuối có âm đọc chệch nghe giống từ “chúi”, thể hiện sự đi xuống, không ngẩng lên được.

Người Miền Nam cũng không trưng quả cam bởi câu “quýt làm cam chịu”. Mâm ngũ quả của người Miền Nam thường có các loại quả mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài (là những loại quả có âm khi đọc chệch nghe như câu “cầu sung vừa đủ xài), thêm 3 trái thơm làm chân đế thể hiện sự vững vàng. Trong khi đó, với người Bắc, hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày trên mâm ngũ quả, kể cả quả ớt, miễn sao đẹp mắt là được.

Ngày nay, do trái cây phong phú, nhiều loại, con cháu muốn thể hiện lòng hiếu thảo đối với ông bà, tổ tiên, đồng thời cũng thể hiện tính trình bày thẩm mỹ, nên mâm ngũ quả ngày càng phong phú hơn. Người ta không câu nệ cứng nhắc là 5 quả nữa mà có thể bày đến 8, 9 hay thậm chí 10 quả, không kén chọn số chẵn hay lẻ. Và dù có bày nhiều hơn nhưng người ta vẫn gọi là mâm ngũ quả.

Nhưng với các ý nghĩa trên nên khi bày mâm ngũ quả, người ta có những quy ước dân gian. Ví dụ, mâm ngũ quả chỉ bày quả, không đặt thêm hoa hoặc thực phẩm gì. Số lượng trên mâm ngũ quả chỉ tính loại, không tính quả. Ví dụ, chuối chỉ cần một nải mà không quan tâm số lượng là 15 hay 16 quả.

Related Posts :

Tết nhảy của người Dao

Hằng năm, ngoài việc vui xuân, đón Tết Nguyên đán như các dân tộc anh em khác, ở các bản người Dao, kể cả Dao đỏ, Dao tiền hay Dao quần chẹt, còn một ngày Tết độc đáo - Tết Nhảy. Song lễ này không tổ chức ở mọi nhà, không phải năm nào cũng tổ chức.

Tết Nhảy chỉ làm ở “Nhà cái” (con trưởng, trưởng họ) tùy hoàn cảnh từng người để chọn năm tổ chức, thường vài năm làm một lần, nhưng không lâu quá 10 năm, như thế là vong ân bội nghĩa với tổ tiên, trời đất, người có công tìm đất.

Sau khi làm cỗ cúng tri ân gia thần, gia tiên, thổ công, thần linh, chúa đất... gia chủ mời mọi người ăn cơm thịt, uống rượu hoẵng, rồi bắt đầu nhảy múa theo bài bản quy định, mạnh mẽ, hùng dũng, quyết liệt. Đây là một nội dung quan trọng, gọi là Tết Nhảy đúng như đã hứa với trời đất cho thoát hiểm dịp đi tìm đất ngày xửa, ngày xưa.

Con cháu trong họ, mặt mày hồ hởi, tư tưởng tập trung, liên tục, luân phiên nhau nhảy múa văn, múa võ, múa chuông, múa rùa, chạy cờ trong mấy ngày tết. Múa văn là biểu tượng con cháu mời ông bà, gia tiên về vui tết, phù hộ cháu con ăn nên làm ra. Múa võ là tái hiện tích ông Hành, ông Hộ vất vả, gian lao chống chọi với thiên nhiên, giặc dã, thú dữ, những tháng năm đi tìm đất, múa rùa là kính báo với 9 phương trời, 10 phương đất, chư Phật cùng Long Vương biết thực tế cuộc sống người Dao, cầu mong được các đấng thần linh che chở về sau.

Múa chạy cờ biểu tượng cho việc tập hợp lực lượng tiến quân, thu quân, đề cao ý thức cộng đồng đoàn kết thực hiện mọi lệ ước dân bản đặt ra, phép công Nhà nước để tồn tại, phát triển như các dân tộc anh em.

Điệu múa nhảy nào cũng kéo dài, cần người khỏe mạnh thay nhau tham gia, có nhiều nhạc cụ trống chiêng và không thể thiếu cái chuông nhỏ trên tay, vừa nhảy vừa lắc nhịp nhàng theo bàn tay giơ cao, hạ thấp, tạo nên thứ âm thanh náo nhiệt, ấn tượng rộn ràng, khỏe khoắn, thu hút nhân tâm.

Tết Nhảy của người Dao đỏ giáp biên giới Việt - Trung cũng được chuẩn bị khá công phu. Trước Tết, nam giới đã ôn luyện các điệu múa cổ truyền. Phụ nữ chuẩn bị quần áo mới cho cả nhà. Mọi người trong họ tham gia cùng tộc trưởng lo tết: trang trí bàn thờ Tổ, dán tranh biểu tượng mào gà trống và tam thanh, nóc bàn thờ rực rỡ bản vẽ “mặt trời” đỏ rực, đôi câu đối “Người yên vật thịnh”, “Uống nước nhớ nguồn”.

Sáng sớm mồng 1 Tết, cả gia tộc tề tựu quanh bàn thờ, khi làm xong lễ kính báo gia tiên, người người cầm dao, vác cuốc ra vườn, gia chủ giận dữ vung dao hỏi tội một cây (đào, mơ, hoặc mận) trong vườn: “Mày được tao vun trồng, sao không ra quả cho tao? Tao phải chặt đổ mày”. Một người trong họ đứng ra xin: "Xin ông xá tội đừng chặt tôi, mai đây, tôi sẽ ra quả (hàm ý tri ân người dày công vun xới), bèn được gia chủ tha cho".

Bắt đầu vào giờ Thìn (8h sáng), Tết Nhảy bắt đầu trước bàn thờ Tổ. Đám thanh niên gọi là “sài cỏ” theo thầy cả “chái peng pi” tổ chức nhảy 14 điệu, diễn tả các động tác mở đường, bắc cầu đưa đón tổ tiên, thần linh về dự Tết. Điệu nhảy chào bố mẹ, tổ tiên thì nhảy múa một chân, đầu cúi, ngón tay trỏ giơ cao. Điệu mời tiên nương, tiểu nữ giáng trần bằng điệu múa cò, mô phỏng cò bay, dang hai tay vẫy vẫy nhịp nhàng. Điệu mời tổ sư thầy cả diễn tả điệu đi của hổ..., điệu nào cũng náo nhiệt, phong phú, ấn tượng.

Cả họ chuyển sang rước tượng tổ tiên. Tượng được chạm khắc đẹp, cao hơn gang tay, con cháu dùng nước thơm chế từ vỏ cây “xum mu”, tắm tượng, thay khăn quàng mới, rồi con cháu nhảy điệu “dâng gà”. Họ cầm con gà trống đỏ, vàng nhảy nhiều động tác kính trọng tổ tiên, đặt gà trên đầu, vác gà qua vai, vừa múa vừa vặt lông đầu gà.

Tết Nhảy của người Dao đỏ diễn ra 10 giờ liền, kết thúc là điệu múa cờ.

Related Posts :

Khói nhang ngày Tết nguyên đán

Khói nhang là một nét văn hóa truyền thống của người Việt vào những ngày giỗ hoặc ngày lễ phật. Đặc biệt vào những ngày tết, nén nhang lại là một điều không thể thiếu trong mỗi gia đình, đó là ước nguyện, là sự ấm cúng mỗi dịp xuân về

Vào những ngày cuối năm, không khí chuẩn bị cho ngày tết rộn ràng khi nhà nhà đi mua sắm các vật dụng, hoa bánh để chuẩn bị cho ngày đầu năm, thì nhang đèn là một vật không thể thiếu.
Vào khoảnh khắc giao mùa giữa năm cũ và năm mới, nhà nhà quay quần bên bửa cơm gia đình, và trên bàn thờ tổ tiên không thể thiếu nén nhang để nhớ về những người đã khuất.

Trong tâm thức của mỗi người Việt Nam đều tin tưởng ở thế giới bên kia, trong khoảng không gian vô định, có những hình ảnh, những con người đang hướng về chúng ta, đang ở bên chúng ta hằng ngày. Và khi thắp nén nhang lên, ta có thể tâm sự với họ, sưởi ấm với cả thế giới này và cả với thế giới vô hình kia nữa.

Đối với người Việt Nam chúng ta, dù ở thành thị hay nông thôn, mỗi lần Xuân về, Tết đến mọi người đều thắp trên bàn thờ trong nhà mình một nén nhang để tỏ lòng thành kính đối với ông bà Tổ tiên, để cầu nguyện an vui, hạnh phúc cho mọi người, đồng thời cũng tạo không khí ấm áp, vui tươi cho cả gia đình trong những ngày đầu Xuân.

Related Posts :

Cách chọn quất cảnh ngày tết nguyên đán theo phong thủy

Cây quất tượng trưng cho sức khỏe, bình an, trường thọ và sự may mắn trong tình duyên. Vào những ngày tết Việt, các gia đình hay chưng cây quất với mong muốn mang lại sự phát đạt, thịnh vượng trong năm mới. Một cây quất đẹp là phải có dáng hình tròn hoặc hình tháp, có gốc to, thân ngắn và nhiều nhánh nhỏ với nhiều quả vàng, quả xanh, nụ trắng, lá chồi

Quất là một loại cây hội tụ đủ ngũ hành vượng với kim (hoa màu trắng) sinh thủy (lá xanh đậm), thủy sinh mộc (thân cây), mộc sinh hỏa (quả chín màu cam), hỏa sinh thổ (đất trong chậu) và thổ sinh kim (hoa màu trắng). Vì thế việc chưng quất cảnh trong ngày tết không chỉ mang tài khí cho gia đình, mà còn mang lại sự may mắn quanh năm.

Để chọn được một cây quất đẹp, phải chú ý đến 4 yếu tố quan trọng: Dáng đẹp, quả đẹp, có lộc xanh, có cả nụ và hoa…Đầu năm chưng bày cây quất, mang sinh khí về nhà, hy vọng một năm mới an khang thịnh vượng.

Nên chọn cây có độ sai quả vừa phải, và có một ít lộc non, như thế biểu hiện gia đình bề thế, hạnh phúc.

Related Posts :

Những nét chấm phá ngày Tết

Từ 23 tháng chạp trở đi là bắt đầu vào thời kỳ rộn ràng của mùa Tết, tính từ mốc sự kiện "đưa ông Táo về trời" (một nghi thức tiễn đưa thần bếp lên chầu Ngọc Hoàng báo cáo lại tình hình trong năm của chủ gia) vào ngày này.

Thiên hạ đua nhau nô nức mua sắm các vật dụng, đặc biệt là quần áo và thức ăn (việc buôn bán mùa Tết thường sẽ chấm dứt từ đúng ngọ ngày 29 hoặc 30 tháng chạp, từ khi đó lần đầu tiên trong năm, chợ búa trở nên vắng vẻ và các sạp trống không). Tại những bến xe tấp nập những người tha phương mua vé xe để trở về quê đoàn tụ cùng gia đình. Không khí lễ mỗi lúc một đầy ngập hơn, người người ai nấy đều nô nức rộn ràng chuẫn bị đón xuân.

Chợ Tết

Đấy là những chợ đặc biệt chỉ xuất hiện vào dịp Tết và chuyên buôn bán các loại "đặc sản" cho người dân hưởng xuân. Vì tất cả những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ xả hơi trong những ngày Tết nên nảy sinh tâm lý mua dự trữ, đưa đến mức cầu rất cao. Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa kiểng, những loại trái cây, đặc biệt là dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài v.v... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt.

Hương vị ngày Tết: bốn thức chủ lực "quốc hồn quốc túy"

Khoảng rằm tháng chạp, củ kiệu tươi được bày bán đầy các chợ. Các bà nội trợ mua về cắt lấy phần củ trắng nỏn nà, phơi qua vài nắng cho khô quắt lại rồi cho vào những ve keo, kế đó cho vào các ve củ kiệu này giấm sôi nấu với đường, xong đậy kín lại. Vào vài buổi chợ giáp tết họ mua thịt heo mỡ, trứng vịt để chuẫn bị món dự trữ chủ lực: thịt kho nước dừa; thêm đôi ba xấp bánh tráng, giá để làm dưa giá nữa là xong. Không ai là người Việt mà không cảm khái thứ hương vị dân tộc và khó quên ấy: bánh tráng nhúng nước cho mềm, trải ra trên một tay, cho lên đấy một miếng thịt mỡ, một miếng hột vịt, vài ba củ kiệu, ít dưa giá rồi cuốn lại, chấm vào tô nước thịt kho dằm miếng ớt. Ngày tết hễ đói bụng, hay muốn nhậu, ngoài các thứ đều không thể thiếu được "thịt kho, dưa giá, củ kiệu, bánh tráng". Phải nhìn thấy chúng, nếm chúng, nuốt chúng xuống dạ dày mới gọi là thưởng thức được hương xuân trọn vẹn.Riêng người Bắc, thay vì củ kiệu, một số người dùng củ hành ta với cách làm cũng tương tự. Ve dưa hành có màu hồng như ngọc, trông rất đẹp và "may mắn".

Màu của ngày Tết

Chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, màu chủ lực trong ngày Tết vẫn là màu đỏ theo quan niệm màu đỏ là màu phát tài và may mắn. Ngày Tết của Việt Nam ngập tràn màu đỏ: câu đối đỏ, phong bao lì xì đỏ, ruột quả dưa hấu đỏ, hạt dưa nhuộm màu đỏ, quyển lịch đỏ. Người Việt Nam cũng thích chưng những loại hoa ánh đỏ như hồng, mãn đình hồng, hoa đào v.v... Trước đây khi pháo còn được cho phép đốt, đường xá ngập tràn trong màu đỏ của xác pháo nổ rân không ngớt kể từ giao thừa đến rạng sáng tết, rồi nổ lẻ tẻ mãi cho đến khi nào hết "mồng" mới thôi! Trang phục có tông màu đỏ cũng được ưa chuộng để mặc Tết.

Khái niệm thời gian

Mùa Tết, không ai bảo ai, mọi người đều cùng nhau dẹp bỏ dương lịch và quay trở sang âm lịch rất tự nhiên, với những khái niệm thời gian trước tết gọi là “hăm” (ngày 20 tháng chạp âm lịch +): hăm mốt tết, hăm chín tết (nếu rơi vào tháng chạp thiếu sẽ không có ngày ba mươi tết), sau tết gọi là “mồng”: mồng hai tết, mồng tám tết... Âm lịch hồi sinh thật kỳ diệu như thể luôn nhắc nhủ mỗi người Việt Nam về tính dân tộc, cổ truyền của ngày lễ trọng đại, thiêng liêng nhất này.

Related Posts :

Sự tích cây niêu ngày tết và ý nghĩa

Theo truyền thuyết và Phật thoại, xa xưa, Người và Quỷ cùng sống trên mặt đất. Quỷ cậy mạnh chiếm đoạt toàn bộ đất đai và bắt Người đi làm thuê cho chúng với những điều kiện ngày càng khắt khe.

Với trò “ăn ngọn cho gốc”, đến mùa gặt Quỷ lấy hết phần ngọn (những bông thóc), còn Người chỉ được phần gốc (rạ). Phật thương Người, mách bảo Người đừng trồng lúa mà trồng khoai lang. Mùa thu hoạch ấy, Người lấy hết củ, Quỷ chỉ được dây và lá khoai.

Quỷ tức tối, mùa sau quy định lại là “ăn gốc, cho ngọn”. Người liền trở về trồng lúa như cũ. Vẫn thất bại, Quỷ đòi “lấy cả gốc lẫn ngọn”. Phật mách Người nên trồng ngô. Người làm theo và lại thắng (vì bắp ngô ở khoảng giữa thân cây). Uất ức, Quỷ tịch thu toàn bộ ruộng đất, không thuê Người trồng cấy gì nữa.

Phật bảo Người thương lượng với Quỷ để mua một miếng đất chỉ bằng bóng chiếc áo cà sa. Người sẽ trồng một cây tre, trên đó mắc áo cà sa, đất của Người là phần đất giới hạn bởi bóng áo ấy. Quỷ nghĩ chẳng đáng là bao nên đồng ý, và hai bên giao ước: đất trong bóng áo là của Người, ngoài bóng áo là của Quỷ.

Khi Người trồng xong cây tre, Phật đứng trên ngọn, tung áo cà sa bay tỏa ra thành một miếng vải tròn. Rồi Phật hóa phép làm cho cây tre cao vút mãi lên, đến tận trời. Tự nhiên đất trời trở nên âm u: bóng của áo cà sa dần dần che kín khắp cả mặt đất.

Quỷ không ngờ có sự phi thường như thế, mỗi lần bóng áo lấn dần vào đất của chúng, chúng phải dắt nhau lùi mãi lùi mãi. Cuối cùng Quỷ không có đất ở nữa, phải chạy ra biển.

Quỷ tập hợp lực lượng phản công hòng chiếm lại đất. Cuộc chiến diễn ra hết sức ác liệt. Biết quân của Quỷ sợ máu chó, lá dứa, tỏi, vôi bột nên Phật và Người sử dụng những thứ ấy làm vũ khí. Quỷ bị đại bại, bị Phật bắt, đày ra biển. Chúng van xin Phật, hàng năm, cho chúng vào thăm đất liền vài ba ngày. Phật thương tình, đồng ý.

Vì thế, hàng năm cứ đến ngày Tết Nguyên đán là ngày Quỷ vào thăm đất liền, thì người ta theo tục trồng nêu để cho Quỷ không dám bén mảng vào chỗ người đang ở.

Trên ngọn cây nêu, Người ta treo khánh đất nung để mỗi khi gió rung thì có tiếng động phát ra để luôn nhắc bọn Quỷ nghe mà tránh. Cũng trên đó có buộc một bó lá dứa hoặc cành đa mỏ hái để cho Quỷ sợ. Ngoài ra, người ta còn vẽ hình cung tên hướng mũi nhọn về phía đông và rắc vôi bột xuống đất vào những ngày Tết để cấm cửa Quỷ.

Những ý nghĩa sâu sắc

Trồng cây nêu đã trở thành tục lệ Tết phổ biến của các dân tộc Việt Nam: từ Kinh, Thái, Mường đến Ba Na, Gia Rai... Trên ngọn nêu, người ta thường treo một túm lá dứa, lông gà, cành đa, lá thiên tuế, những chiếc khánh và con cá bằng đất nung, cùng một tán tròn bằng tre nứa dán giấy đỏ.

Ngoài ra có nơi còn treo những chiếc đèn lồng, đèn xếp hoặc vài xấp tiền, vàng mã... Dù với dụng ý khác nhau, nhưng những vật treo đều tượng trưng cho mong muốn bảo vệ con người, tạo lập hạnh phúc cho con người. Ví như lá dứa để dọa ma quỷ (vì ma quỷ sợ gai), không cho chúng vào quấy phá.

Cái khánh đồng âm với “khánh” có nghĩa là “phúc”: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình. Cành đa tượng trưng cho điều lành và tuổi thọ. Tiền vàng mã để cầu tài, cầu lộc. Lông gà là biểu tượng chim thần (một sức mạnh thiên nhiên giúp người).

Đặc biệt, cây nêu còn coi là cây vũ trụ - nối liền Đất với Trời. Tán tròn bằng giấy đỏ tượng trưng cho Mặt Trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của Mặt Trời) đậu. Cuối năm (cuối mùa đông) mới trồng cây nêu để đầu năm ngọn nêu vươn lên đón ánh nắng xuân, sức sống xuân.

Nghi thức thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam

Nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam được coi là độc đáo, trở thành hệ thống và có ý nghĩa riêng của nó. Khởi đầu những ngôi mộ trong hang động ở vùng trung du Bắc Bộ có những vật dụng đem theo cho người chết với sự tin tưởng người chết vẫn sống ở thế giới vĩnh hằng. Con người, ông bà, tổ tiên mình có thể thành Tiên, thành thần, thành thánh, thành Phật.

Chính vì vậy, người ta lập bàn thờ, nhà thờ một cách trang trọng. Khi cúng tế, người ta luôn cầu ân đức, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu. Không chỉ ngày giỗ, ngày Tết mà còn có những dịp trong đại của con người như đám cưới, đám tang hay khi gặp hoạn nạn, làm ăn, đều khấn vái, kính cáo Tổ tiên.

Các nhà nho trước đây cho rằng thờ cúng tổ tiên chỉ để thể hiện chữ hiếu, với tinh thần chim có tổ, người có tông, uống nước nhớ nguồn.

Ngày nay, mọi gia đình người Việt Nam đều thờ tổ tiên và hầu hết đều có bàn thờ gia tiên, đó chính là quốc đạo, lấy con người làm chủ vạn vật, coi trọng âm đức, cái đức thiêng liêng của con người

Related Posts :

20 câu đối hay ngày Tết

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh

Chơi câu đối người ta chọn từng đôi cho hợp với cảnh, bởi vậy nhiều người tự nghĩ lấy câu đối, viết lấy hoặc thuê ông đồ viết giúp.

1. Môn đa khách đáo thiên tài đáo
Gia hữu nhân lai vạn vật lai
Dịch:
Cửa nhiều khách đến nhiều tiền đến
Nhà có người vào lắm vật vào

2. Sơn thủy thanh cao xuân bất tận
Thần tiên lạc thú cảnh trường sinh
Dịch:
Phong cảnh thanh cao xuân mãi mãi
Thần tiên vui thú cảnh đời đời


3. Thiên tăng tuế nguyệt, niên tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường
Lược dịch:
Trời thêm năm tháng, tuổi thêm thọ
Xuân khắp đất trời, phúc khắp nhà

4. Tổ tôn công đức thiên niên thịnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại xương
Dịch:
Công đức tổ tôn nghìn năm thịnh
Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay

5. Xuân như cẩm tú, nhân như ngọc
Khách mãn gia đình, tửu mãn tôn
Lược dịch:
Xuân như cẩm tú, người như ngọc
Khách chật trong nhà, rượu hết chung

6. Phúc sinh lễ nghĩa gia đường thịnh
Lộc tiến vinh hoa phú qúy xuân
Dịch:
Phúc đem lễ nghĩa trong nhà thịnh
Lộc nảy vinh hoa phú qúy xuân

7. Niên niên như ý xuân
Tuế tuế bình an nhật
Dịch:
Năm năm xuân như ý
Tuổi tuổi ngày bình an

8. Nhập môn tân thị kinh luân khách
Mãn tọa dai đồng cẩm tú nhân
Dịch:
Vào cửa toàn khách kinh luân
Ngồi chơi toàn người cẩm tú

9. Niệm tiên tổ, duật tu quyết đức
Khải hậu nhân,trường phát kỳ tường
Dịch:
Nhớ tổ tiên, đẹp điều nhân đức
Tin cháu con bền sự lạ hay

10. Thảo ốc an cư, tích kim quang đắc đức
Bố y tùy phận, cầu phúc đức lai tài
Dịch:
Nhà cỏ ở yên, tích kim quang được đức
Áo vải an thân, cầu phúc đức đến tài

11. Thiên địa vô tư, tích thiện tự nhiên thiện
Thánh hiền hữu giáo, tu thân khả dĩ vinh
Dịch:
Trời đất vô tư, làm điều thiện tự nhiên được thiện
Thánh hiền có dạy, lo tu thân có thể được vinh

12. Tân niên, hạnh phúc bình an tiến
 Xuân nhật, vinh hoa phú qúy lai
Lược dịch: Năm mới, hạnh phúc bình an đến 

Ngày xuân, vinh hoa phú qúy về
13. Ðịa sinh tài, thế nghiệp quang huy
Thiên tứ phúc, gia thanh hiện thái
Dịch:
Ðất sinh tài nghiệp đời sán lạn
Trời ban phúc, nhà tiếng tốt tươi

14. Phúc mãn đường, niên tăng phú qúy
Ðức lưu quang, nhật tiến vinh hoa
Dịch:
Phúc đầy nhà, năm thêm giàu có
Ðức ngập tràn, ngày một vinh hoa

15. Trúc bảo bình an, tài lợi tiến
Mai khai phú qúy, lộc quyền lai
Lược dịch: Trúc giữ bình yên, thêm tài lợi 

Mai khai phú qúy, lại lộc quyền
16. Tiên tổ phương danh lưu quốc sử
Tử tôn tích học hiển gia phong
Dịch:
Tiên tổ danh thơm ghi sử nước
Cháu con tích học nổi cơ nhà

17. Liên tọa đài tiền hoa hữu thực
Bồ đề thụ thượng qủa thanh nhàn
Lược dịch: Tòa sen đài trước hoa đầy đủ 

Cổ thụ bồ đề qủa thanh nhàn
18. Đa lộc, đa tài, đa phú quý
Đắc thời, đắc lợi, đắc nhân tâm
Dịch:
Nhiều lộc, nhiều tài, nhiều của cải
Gặp thời, được lợi, được lòng người

19. Ngoài cửa mừng Xuân nghênh Ngũ Phúc
Trong nhà chúc Tết hưởng Tam Ða
Dịch:
Ngũ phúc lâm môn … còn thiếu
Tam nguyên khai thái … có thừa

20. “Thiên tăng tuế nguyệt, niên tăng thọ
Xuân mãn càng khôn, phúc mãn đường”
Dịch:
Trời thêm tuổi mới, năm thêm thọ
Xuân khắp càn khôn, phúc khắp nhà

Related Posts :

Tranh dân gian ngày tết

Trong tất cả các loại tranh tết Việt Nam, có lẽ đa dạng và độc đáo nhất là tranh dân gian. Đây là loại tranh trường tồn cùng lịch sử, không trau truốt cầu kỳ như các loại tranh khác mà mang đậm tính dân tộc.

Trong các làng tranh dân gian Việt Nam, nổi bật nhất là làng tranh Đông Hồ, nằm ở ven sông Đuống. Tranh được làm từ giấy dó, quét phủ một lớp điệp óng ánh làm cho màu in thêm rực rỡ. Từ thời xa xưa, tranh dân gian Đông Hồ đã nổi tiếng là rẻ và đẹp, được nhiều nơi ưa thích.

Ở phố Hàng Trống (Hà Nội) cũng có nhiều người làm tranh dân gian, nhưng chủ yếu là vẽ tranh thờ (hổ, rồng, thần, thánh...). Họ làm bằng kỹ thuật kết hợp đường nét in đen từ bàn khắc gỗ với việc tô màu phẩm bằng tay. Nghệ sỹ vẽ tranh dùng bút màu quét phẩm nước, tạo nên những gam màu đậm nhạt lung linh.

Mỗi bức tranh dân gian đều mang một ý nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người. Dễ thấy nhất là tranh vẽ đàn gà, tượng trưng cho tình mẫu tử và sự sum họp đông vui. Tranh mẹ con đàn lợn tượng trưng cho cuộc sống no ấm và cảnh chăn nuôi ở nhà nông.

Tranh gà trống sặc sỡ và oai vệ, tượng trưng cho ý chí kiên trung, bất khuất của trang nam nhi quân tử và cũng thể hiện cho 5 đức tính quý của con người: văn (vẻ đẹp – mào gà); vũ (cứng rắn – cựa gà); nhân (lòng thương yêu đồng loại – khi kiếm được mồi luôn gọi đàn đến cùng ăn); dũng (sức mạnh – gặp kẻ thù thì kiên quyết chống lại); tín (hàng ngày báo giờ rất đúng). Tranh gà đẹp và ý nghĩa như thế, nên nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã viết trong bài thơ Chợ tết: “Lũ trẻ còn mải ngắm bức tranh gà/ Quên cả chị bên đường đang đứng gọi”.

Tranh đám cưới chuột là minh chứng sống động và hóm hỉnh cho quan hệ mạnh hiếp yếu trong xã hội. Chuột làm đám cưới phải lo lễ vật cống cho mèo, cầu xin mèo để yên cho đám cưới được tiến hành.

Tranh đánh ghen thì có tính giáo dục những ông chồng hay trăng hoa, đề cao đức tính nhẫn nhịn của người vợ và vai trò của người phụ nữ trong xã hội.Tranh hứng dừa là cái cười tinh tế của dân gian trước sự hớ hênh ô tình của các cô gái... Tất cả đều là những sinh hoạt thường ngày của con người, được vẽ cách điệu tài tình, làm cho cuộc sống vui tươi, sống động.

Tranh dân gian cũng đã có số lượng khá nhiều về đề tài lịch sử như bà Trưng Trắc cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh Nam Hán, Đinh Bộ Lĩnh cờ lay tập trận... Đó là những bức tranh tạo nên sự hùng tráng và niềm tự hào dân tộc. Ngoài ra, có những bức tranh được đặc biệt yêu thích như tranh Phú quý (đứa bé tóc trái đào giữ con vật), Vinh hoa (cậu bé ôm con gà trống), Thất đồng (7 cậu bé hồn nhiên hái quả), Tứ tôn vạn đại (4 cậu bé nô đùa với những dây bầu trĩu quả)...

Tranh dân gian được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng có điểm giống nhau là đều đề cao đạo lý làm người, giáo dục những phẩm chất tốt và cầu mong những điều tốt đẹp trong năm mới. Nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, nhất là mỗi khi tết đến xuân về. 

Related Posts :

Lên kế hoạch cho ngày tết

Những ngày cuối năm càng tới gần chúng ta càng dễ bị stress tấn công hơn. Ở công sở, chúng ta phải làm các việc tổng kết, tổ chức hoặc là tham gia các hoạt động tập thể như tiệc liên hoan. Ở nhà là một danh sách dài bao gồm việc mua sắm, kê dọn nhà cửa, mua và trưng hoa kiểng, nấu ăn… Nếu không chuẩn bị tốt, chúng ta sẽ bị stress đánh bại. Những người xung quanh chúng ta cũng sẽ không được vui vẻ. Dịp lễ tết của chúng ta và gia đình vì vậy sẽ không được mĩ mãn.

Lập kế hoạch cho tốt 
Bố mẹ tôi thường dành một bữa ngồi với nhau để lên danh sách những việc cần làm, thứ cần mua sắm… cho kì nghỉ lễ tết từ trước đó 1 tháng rưỡi, 2 tháng hoặc hơn. Danh sách này sẽ được đưa cho những thành viên khác trong gia đình đóng góp ý kiến. Sau đó là phân công công việc. Tới gần dịp lễ, danh sách sẽ được rà soát vài lần nữa để điều chỉnh cho sát thực tế. Cách làm này giúp chúng ta chuẩn bị tốt hơn, không bỏ sót, không chồng chéo.

Tìm cách giải phóng sức lao động 
Trước đây, tất cả việc lớn nhỏ trong quá trình chuẩn bị cho ngày lễ tết đều do mọi người trong gia đình tự làm. Tuy có thể chủ động về thời gian, tiết kiệm được chút tiền, nhưng rất là mệt mỏi. Kết quả đôi khi cũng không được như ý vì vấp phải những việc không phải sở trường. Sau này, bố mẹ tôi quyết định thuê dịch vụ bên ngoài trong một số việc như sơn sửa nội thất, tổng vệ sinh cuối năm, nấu các món ăn cầu kì… Nếu lập kế hoạch sớm, tìm hiểu sớm và đặt trước sớm thì sẽ lựa chọn được dịch vụ có chất lượng.

Xác định rằng mọi thứ không cần quá hoàn hảo 
Những bài viết, tranh ảnh trên sách báo hay những phóng sự trên truyền hình về cách đón lễ tết “chuẩn mực” đôi khi có ảnh hưởng tiêu cực tới cách nghĩ của chúng ta. Chúng sẽ làm cho chúng ta có cảm giác không thỏa mãn và tự hỏi sao lễ tết ở nhà mình không được hoàn hảo như trong sách báo, phim ảnh. Nhưng một người thân có kinh nghiệm trong ngành truyền thông trong gia đình tôi đã tiết lộ rằng những thứ trông tuyệt hảo ấy đều được biên tập, chỉnh sửa hết. Ở gia đình tôi, một sự thật được rút ra là mọi người vẫn vui khi bắt gặp một lỗi nhỏ trong ngày lễ tết như vết ố trên khăn bàn, nhưng sẽ không vui nổi nếu thấy thái độ bứt rứt, bực bội của mẹ tôi chỉ vì một lỗi nhỏ.

Tóm lại, lễ tết đúng là những dịp rất có ý nghĩa, nhưng điều làm nên ý nghĩa của lễ tết chính là suy nghĩ của chúng ta chứ không phải là những thứ thuộc về vật chất hay nghi thức xã giao. Nếu chỉ coi lễ tết là dịp nghỉ ngơi, chia sẻ tình cảm thì chúng ta sẽ không tự tạo áp lực cho chúng ta trong việc chuẩn bị, tránh được những cuộc tấn công của stress.

Related Posts :

Tục tảo mộ trước Tết

Hàng năm, cứ vào khoảng ngày 24, 25 tháng Chạp là nhiều gia đình người Việt đi tảo mộ. Người ta đi thăm viếng, vun lại những nấm mồ, phát cỏ dại, chặt cây cối quanh mộ, sửa sang, tu bổ mộ phần những người quá cố trong gia đình, và cả những phần mộ của các vị tổ tiên nhiều đời trước đó.

Để tưởng nhớ người đã khuất, những người còn sống mỗi năm đều cúng giỗ. Và vào mỗi dịp năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến, người ta còn lo sửa sang, thăm viếng mồ mả, làm sạch đẹp nơi an nghỉ của ông bà tổ tiên, người thân của mình.

Truyền thống tâm linh người Việt tin rằng, khi năm mới đến tất cả mọi thứ đều phải được chuẩn bị, sửa sang cho mới mẻ, kể cả nơi an nghỉ của ông bà, người thân.

Tục ngữ Việt Nam có câu “cao nấm ấm mồ”. Vì vậy, sửa sang nấm mồ cũng là một trong những việc hiếu đạo của con cái, thể hiện lòng kính trọng đối với đấng sinh thành, và các bậc tổ tiên đã khuất.

Tục tảo mộ cuối năm, ngoài là một phong tục phổ biến của người dân Việt khắp mọi miền đất nước, còn là một hoạt động mang tính dòng tộc rõ nét.

Đặc biệt, những dòng tộc lớn thường có những ngày tảo mộ được quy định rất cụ thể, thường ghi trong gia phả như một truyền thống của dòng tộc để con cháu ở các thế hệ sau tiếp tục thực hiện, cũng để thắt chặt tình yêu thương, đoàn kết đồng thời cũng mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Về quê tảo mộ mỗi dịp xuân về đã trở thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đó cũng là thể hiện của tình cảm hướng về với nguồn cội. Người ta ví: “Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu” là vậy. Ca dao xưa cũng có câu:

“Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn”

Đối với cư dân thành thị, những người đã khuất được mai táng trong các nghĩa trang ở thành phố, do vậy thường khó duy trì việc những người trong gia đình, dòng họ khi khuất núi được chôn cất gần gũi, đầm ấm với nhau như ở thôn quê.

Nhưng cứ mỗi dịp cuối năm, khi sắp đến Tết Nguyên đán, người thành thị cũng luôn sắp xếp thời gian để đi thăm viếng, chăm sóc phần mộ ông bà, cha mẹ, người thân của mình để tỏ lòng hiếu thuận.

Thăm viếng phần mộ tổ tiên cũng là nét đặc trưng của văn hóa cổ truyền, một tục lệ trong “đạo thờ ông bà” của dân tộc ta vốn từ lâu đã trở thành truyền thống. Dù tất bật thế nào đi chăng nữa trong cuộc mưu sinh, dù cả năm bôn ba làm ăn ở nơi xa, nhưng chốn quay về vẫn là gia đình.

Nhiều gia đình cho rằng mỗi dịp tảo mộ cũng là một dịp giãi bày với ông bà, tổ tiên những chuyện đã xảy đến trong năm với cả gia đình, dòng họ; cũng là để thành tâm mời ông bà tổ tiên chuẩn bị cùng về ăn Tết với gia đình.

Do đó, theo sau phong tục này ta có tục rước ông bà vào trưa ngày 30 âm lịch, và đưa ông bà, thường là vào trưa mùng 3 hoặc mùng 4, tùy theo tập quán ở mỗi địa phương, và nếp sống của mỗi gia đình.

Thường thì ngày tiễn đưa ông bà cũng là ngày cuối cùng của những ngày nghỉ ngơi vui Tết, mọi người trong gia đình lại quay trở về với cuộc sống thường nhật, với những công việc phải làm, cùng với lòng tin là sẽ được tổ tiên phù hộ cho những ngày tiếp sau đó.

Related Posts :

Ý nghĩa tục Lì Xì ngày Tết

Quanh chuyện "lì xì" ngày Tết bằng tiền và bằng... chữ! Nghe hai tiếng "lì xì" người ta liền tưởng tới bao giấy màu đỏ, nho nhỏ bằng phần tư trang giấy học trò, bên trong có xếp mấy tờ tiền mới. Vậy hai tiếng "lì xì" ở đâu ra? Nguồn gốc của nó thế nào? Chúng tôi lân la "tầm nguyên" qua các nhà nghiên cứu, hỏi trực tiếp bằng miệng có, giở sách vở các vị có, thấy giải thích hai chữ "lì xì" tựu trung là "tiền mừng tuổi".

Cuốn từ điển thời nay do Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học chẳng hạn, mục từ lì xì giải thích: "Lì xì là mừng tuổi (bằng tiền). Tiền lì xì cho các cháu ngày mùng một Tết". "Lì xì" bằng tiền không chỉ giới hạn trong mùng một Tết, mà "liền tù tì" suốt ba ngày đầu năm, thậm chí kéo dài tận những ngày "mùng" cuối cùng của Tết như mùng 9, mùng 10. Theo một số vị mà chúng tôi hỏi chuyện, như cụ Nguyễn Quảng Tuân, Huỳnh Ngọc Trảng, Phạm Đan Quế, thì tục mừng tuổi vẫn cứ nên giữ. Nhà nghiên cứu Thông Hội bảo: "Đó là một phần đậm đà của phong vị Tết Việt Nam, đặc biệt đối với trẻ con, khiến trẻ nhớ tới Tết như một thời điểm mở đầu năm mới, đẹp như cổ tích". Với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, tác giả Dư âm, cứ nên lì xì "miễn là đừng lì xì tiền đô cho trẻ, không đúng chỗ, mà tập hư cho chúng ăn xài". Vũ sư Hoài Nhơn (Trần Trinh Nhơn), con trai lớn của công tử Bạc Liêu (Trần Trinh Huy), thì kể rằng: "Ba tôi mất ngày 21 tháng chạp năm Quý Sửu 1973 ở Sài Gòn. Đầu năm đó, ăn cái Tết cuối cùng, ông còn lì xì tôi mặc dầu tôi đã 27 tuổi. Tôi vẫn không quên cái phong bì màu đỏ ấm áp, biểu lộ tình cảm của một người cha lúc nào cũng nhìn xuống con mình như thời còn nhỏ tại Bạc Liêu". Nhà nghiên cứu Cao Sơn giải thích: - Lì xì tiếng chữ là lợi thị, đọc theo âm Quảng Đông, Triều Châu thành "Lê - i - xị", chỉ số tiền được cho, tặng trong các dịp đầu năm, khai trương và cả trong lễ thành hôn nữa, chứ không bó hẹp trong dịp Tết Nguyên đán.

Lì xì nhằm cầu chúc người nhận gặp may mắn, phát đạt. Thường người Tàu bỏ tiền vào bao giấy màu đỏ. Người Việt Nam ta cũng làm tương tự, phổ biến ở miền Nam ngày Tết. Ở miền Trung thì ông bà cha mẹ, người tôn trưởng cho con cháu tiền mới vào dịp Tết gọi là "tiền mừng tuổi". Không chỉ người lớn mừng tuổi con cháu, mà hồi xưa, con cháu phải mừng tuổi ông bà trước. Qua giao thừa, tới sáng sớm mùng một, con cháu bảo nhau tới nhà thờ để chúc Tết và lạy mừng ông bà, cha mẹ. Không chỉ lạy suông, cũng không thể muốn lạy mấy lạy thì lạy, mà theo nhà văn Toan Ánh, chỉ lạy... hai lạy rưỡi. Lạy xong con cháu phải biết "thơm thảo" với đấng sinh thành bằng cách cung kính dâng lên những thứ bánh trái tươi ngon và một phong giấy hồng: Bên trong phong giấy thẳng thớm này có đặt một món tiền, để lên khay tươm tất và hoan hỷ, xin các cụ nhận cho, đó là "tiền mở hàng". Tiền này không nhằm để cất cho nặng hầu bao, mà ngụ ý cầu chúc các cụ quanh năm sung mãn, may mắn. Tục mừng tuổi nay còn đó. Ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì, cậu mợ lì xì lớp cháu, con. Bằng hữu thân quyến tới nhà ai chúc Tết lì xì trẻ con của nhà đó. Hoặc chủ nhà đón khách tới chúc Tết lì xì trẻ em đi theo khách. Ý nghĩa chính không nằm ở "tiền" mà ở "tình", tức ở lòng mong ước cầu chúc các cháu hay ăn chóng lớn, vui chơi, học hành tấn tới, còn phong bì nặng nhẹ nhiều ít (tiền) không phải là điều đáng để tâm lắm. Thậm chí không có một cắc bạc mà chỉ có... chữ. Chữ viết rõ to, đậm nét để "làm quà" mừng tuổi như chuyện dưới đây.

Xưa, có một nhà nọ, nghèo quá, sinh ba đứa con trai. Tết đến người cha không có tiền để lì xì. Chiều ba mươi, ông nghĩ ra một cách, lấy giấy đỏ làm 3 cái phong bì, bề ngoài trông thẳng thớm tươi tắn đỏ thắm như các phong lì xì khác. Nhưng bên trong không bỏ tiền, mà thay bằng 3 miếng giấy được ông viết 3 chữ nắn nót: Phước - Lộc - Thọ. Qua sáng mùng một, người cha gọi 3 đứa con trai đến trước bàn thờ, xoa đầu chúng, tươi cười mừng tuổi chúng bằng 3 cái phong bì nhẹ hẫng, sau khi đã giải thích Phước là gì, Lộc là gì, Thọ là gì... Qua Tết, bước vào năm mới, chẳng ngờ nhà ông phát tài, tiền vô như triều cường. Thoắt cái, lại tới ba mươi tháng chạp. Ý chừng nhớ lại Tết xưa nghèo thiếu, đạm bạc, ông định bụng sẽ tái diễn cách "lì xì" bằng chữ để ba đứa "Phước Lộc Thọ" đừng bao giờ quên rằng, chúng đã được ăn no mặc ấm từ một quá khứ đói rách gần đây. Ai đời, khi nhận phong bì xong, ba đứa con bóc ra, mỗi đứa đều thấy vỏn vẹn chữ Phước, còn hai chữ Lộc Thọ biến đâu mất. Người cha cũng ngạc nhiên không kém. Bốn cha con đang phân vân, bỗng một người từ đâu đến bảo: "Ta là phúc thần của đất này. Chữ Phước đó do ta ban cho. Chỉ cần có nó cũng gồm đủ cả ba: phước, lộc, thọ, vì có phước mới hưởng được lộc, mới thọ lâu. Vì thế chẳng cần phải cầu lộc, cầu thọ, chỉ một chữ phước để mừng tuổi đầu năm là đủ". Nói rồi, biến mất. Nhìn lại phong lì xì, cả bốn cha con sửng sốt một lần nữa vì chữ phước cũng biến mất luôn, trên mặt giấy trống trơn, trắng toát.


Bấy giờ vị thần thứ hai hiện ra kể cho bốn cha con nghe một chuyện mừng tuổi xa xưa. Đó là câu chuyện nổi tiếng khắp châu Á, loan truyền qua Tây Tạng và dãy Hy Mã Lạp Sơn, đến cả lưu vực sông Hoàng Hà, Dương Tử của Trung Quốc, du nhập vào Việt Nam từ lâu đời, về một người cầu phước được phước, trở nên giàu có nhưng hết sức keo kiệt. Ông ta quên những điều tốt đẹp, những ban phát ngọt ngào, rộng lượng mà mình đã làm ở tiền kiếp, vì vậy một mực thâu góp vàng ngọc về riêng mình, trong kiếp này, bỏ vào chiếc hũ, đem chôn ở một vị trí bí mật trong nhà không cho ai hay. Ngay cả con trai của ông cũng không được biết nơi cất giấu. Về già, ông ngã bệnh. Khi chết, linh hồn ông bị hũ vàng ám ảnh, đã quay lại nhà cũ, tìm cách chui vào xác chết cứng lạnh của mình, nhưng bất lực. Thấy vậy, một con chó gần nhà có linh tính đã nhường thể xác hèn mọn của mình cho kẻ giàu có kia trú vào, rồi bay lên không trung thoáng đãng. Còn ông nhà giàu thay thế làm chủ thể xác của con vật bốn chân, thỏa mãn được "sống" lại, dầu với tấm thân thuộc hàng súc sinh như chó. Con chó đó lạ thay suốt ngày không đi đâu cả, cứ nằm lì trước hiên. Mà chỉ nằm ở một nơi nhất định sát cửa ra vào. Hễ người con (bây giờ đã là chủ nhà) đuổi đi, một lát không lâu nó lại quay về chỗ cũ, cứ như rời chỗ ấy là nó rời sự sống của nó vậy. Các phước quả mà nó hưởng là hũ vàng ngọc, giờ đây trở thành điều vô phước cột chặt nó vào tham si. Ngày nọ, một đại sư ngang qua, nói với đứa con: "Này anh kia, anh có biết con chó đó là ai không?". "Dạ thưa không". "Ta nói cho biết, nó chính là cha của ngươi. Vì sao nó nằm lì suốt ngày đêm ở khoảnh đất sát cửa đó? Ấy là vì nó luyến tiếc của cải chôn dưới đất. Hãy đào lên". Người con lấy làm lạ, cho đào thử chỗ con chó thường nằm, thì quả nhiên thấy hũ vàng bên dưới. Bị rúng động vì việc này, người con tỉnh ngộ, từ chối sở hữu số vàng, rời nhà theo vị đại sư lên núi, về sau trở thành một trong những vị tổ đầu tiên của lịch sử Thiền tông. Vị này tỉnh ngộ rằng: nếu làm phước, được phước mà thiếu huệ tức trí huệ sẽ trở nên nguy hiểm ngu si như con chó kia vậy. Được phước, thiếu huệ, thì như nằm trên đống vàng, đống ngọc mà vẫn khổ đau, thiếu thốn, phiền bực. Kể xong, vị thần bảo: "Đó là lý do vì sao ta phải xóa trắng chữ phước trong bao lì xì mừng tuổi của các ngươi. Nó chỉ có ý nghĩa tốt đẹp nếu sinh đôi cùng huệ, bằng không chỉ là động lực cho những cuộc thăng trầm bất tận. Giờ đây ngươi hãy nhìn xem".

Bốn cha con thấy trên bao lì xì hiện lên hai chữ Phước Huệ. Hai chữ này để mừng tuổi cho mọi tâm hồn đã đi qua mùa đông để mở đầu một năm mới thăng hoa. 

Related Posts :

Lễ hội ngày Tết: Hội Đền An Dương Vương (Đền Cổ Loa, Đông Anh - Hà Nội)

Đền thờ An Dương Vương toạ lạc trên mảnh đất thuộc làng Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội, cách trung tâm thủ đô khoảng 17 km nằm trên quốc lộ Hà Nội đi Phúc Yên. Đền nằm trong vị trí khu Thành Cổ, bao gồm một cụm các di tích: Đình Ngự Triều Di Quy, tương truyền đây là nơi ngự triều của vua Thục; Am Bà Chúa - nơi thờ công chúa Mỵ Châu, con gái vua Thục. Trong am vẫn còn pho tượng đá cụt đầu, dấu tích của nỗi lòng oan khiên hận tình nợ nước của nàng công chúa vì nhẹ dạ mà mắc mưu kẻ địch để nỗi nước mất nhà tan.

Lễ hội mở đầu bằng đám rước Văn Chỉ và kiệu Thành hoàng các xóm sáng mồng 6 tháng Giêng sang đền thờ Vua chủ. Đền Thượng sẽ là nơi cử hành tế lễ, sân đền có cắm cờ ngũ sắc và bày các khí tự: đôi ngựa hồng, ngựa bạch hai bên tả hữu, chính giữa là hương án có bày đồ lễ, hộp kính đựng hia vàng và các đồ ngũ sự cùng với các khí giới của nhà vua.Đám rước xong cũng là lúc dân làng tham dự hội với những trò vui cổ truyền: đánh đu, đáo, đĩa, các cụ thì chơi tổ tôm, cờ bỏi... Hội cứ thế kéo dài cho tới 16 tháng Giêng mới làm lễ tạ trời đất và đóng đám.

Related Posts :

Lễ hội ngày Tết: Hội Chùa Hương (Mỹ Đức - Hà Nội)

Hội Chùa Hương (Mỹ Đức - Hà Nội)Hội chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn, thuộc địa phận huyện Mỹ Đức, Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ). Ngày mồng 6 tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.


Phần lễ tại Lễ hội chùa Hương bao gồm gần như là cả một tổng thể tôn giáo, tín ngưỡng của người Việt Nam: có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Những tính chất tôn giáo có phần bị tình yêu thiên nhiên, tinh yêu nam nữ, tình cảm cộng đồng… tràn đầy chất thẩm mỹ vừa thanh cao, rất trần tục lấn đi.

Trẩy hội chùa Hương vì vậy cả tâm hồn và thể xác đều được đắm sâu vào trong mây ngàn cỏ nội. Ngày hội, làng tổ chức rước thần từ đền ra đình. Cờ trống đi trước dàn nhạc bát âm kế theo, trai thanh gái lịch phù kiệu, ông già bà cả thành tâm tiễn thần. Không khí ấy làm tâm linh mọi người sảng khoái.

Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều  khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.Trong suốt những ngày hội là sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, là sự thành kính của các bậc cao niên, là sự hoan hỷ mà nam phụ lão ai ai cũng có phần riêng của mình. Cả ở những triền núi thấp cao, những rừng cây, rừng mơ… là những đoàn người trẩy hội. Kẻ đi ra, người đi vào, kẻ đi lên, người đi xuống bồng bềnh vào những đám mây nhẹ. Họ gặp nhau, quen hay không quen cũng vui vẻ chào nhau bằng một lời chào: "Nam mô a di đà Phật" nhẹ nhàng. đằm thắm và ấm áp…

Du khách đến chùa Hương sẽ có dịp được chứng kiến và may mắn tham dự vào không khí sinh hoạt văn hóa của lễ hội. Cảm nhận tinh thần thiên nhiên của ngày hội lịch sử ấy để từ đó hồi âm về quá khứ của tổ tiên ở một làng quê ven chân núi.Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc vào non tiên cõi Phật. Chính vì vậy, nói đến chùa Hương là nghĩ đến con đò - một dạng của văn hóa thuyền của cư dân Việt ngay từ thuở xa xưa. Và đến nay, ngày hội bơi thuyền ở chùa Hương luôn tạo cảm hứng mãnh liệt cho người đi hội.

Trẩy hội chùa Hương không chỉ dừng lại ở chốn Phật đài hay bầu trời - cảnh bụt, mà trước hết là do ở sự tiếp xúc - hòa nhập huyền diệu giữa con người trước thiên nhiên cao rộng. Đó là vẻ đẹp lung linh của sông nước, bao la của đất trời, sâu lắng của núi rừng, huyền bí của hang động… Và dường như đất - trời, sông núi đẹp hơn nhờ tài sáng tạo hình tượng - trí tưởng tượng này lòng nhân ái của con người.Quan niệm lưỡng hợp biểu hiện ở thế đối ứng hai hiện tượng, hai phạm trù khác nhau mà bên nhau, làm cho cuộc hành trình về nơi thờ Phật dù có lúc vất vả nhưng vẫn đem lại sự cân bằng trong tâm thức và thể lực cho du khách.Trẩy hội chùa Hương là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và tục - thực là nền tảng, mơ là uất vọng - trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt Nam chất phác, nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và trao truyền.

UBND Huyện Mỹ Đức cho biết, Lễ hội chùa Hương năm 2013 sẽ được tổ chức hoành tráng nhất từ trước đến nay, là lễ hội mở màn của Hà Nội trong năm mới, hưởng ứng năm du lịch quốc gia 2013 với chủ đề  “Nét đẹp truyền thống văn hóa Việt” 

Related Posts :

Lễ hội ngày Tết: Hội Đền Sóc (Sóc Sơn - Hà Nội)

Khu di tích lịch sử đền Sóc là nơi gắn với truyền thuyết anh hùng thánh Gióng bay về trời sau khi đánh thắng giặc Ân. Khu di tích này được Vua Lê Đại Hành cho xây dựng tại khu vực núi Sóc, xã Vệ Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Hiện tại, khu di tích gồm: đền Trình, đền Mẫu, chùa Đại Bi, đền Thượng, tượng đài thánh Gióng, chùa Non nước và các lăng bia đá ghi lại lịch sử và lễ hội đền Sóc.


Theo truyền thuyết, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn (Hà Nội) là nơi dừng chân cuối cùng trước khi Thánh Gióng về trời, nên hàng năm cứ ngày mồng 6 tháng Giêng âm lịch, dân làng ở đây mở hội linh đình tại Khu di tích đền Sóc thờ Thánh Gióng – Phù Đổng Thiên Vương.

Lễ hội Gióng Sóc Sơn diễn ra trong ba ngày với đầy đủ các nghi lễ truyền thống như: lễ khai quang, lễ rước, lễ dâng hương, dâng hoa tre lên đền Thượng, nơi thờ Thánh Gióng.Núi Sóc nằm ở xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, là nơi Gióng ngồi nghỉ, ngắm nhìn đất nước lần cuối rồi cởi áo bỏ lại và cưỡi ngựa về trời. Tại khu vực này có một quần thể di tích gồm đền Thượng, chùa Đại Bi, chùa Non Nước, đền Hạ, miếu Thánh Mẫu và nhà Bia.

Trước ngày hội diễn ra, bảy thôn làng đại diện cho bảy xã chuẩn bị lễ vật trong ngày mở đầu hội chính. Nhưng nghi lễ đặc biệt sẽ được làm vào đêm mùng 5 đó là lễ Dục Vọng để mời ông Gióng về với các lễ vật, lễ phẩm đã được chuẩn bị chu đáo với lòng thành kính, mong đức Thánh Gióng phù hộ cho dân làng có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngoài ra, trong hội còn có nhiều trò chơi dân gian sôi động như chọi gà, cờ tướng, hát ca trù, hát chèo…

Ngày chính hội là mùng 7, ngày thánh hoá theo truyền thuyết. Ngày khai hội, dân làng và khách thập phương dâng hương, đúng nửa đêm có lễ khai quang - tắm cho pho tượng Thánh Gióng. Nghi lễ chủ yếu trong ngày chính hội là dâng hoa tre ở đền Sóc (thờ Thánh Gióng) và chém tướng giặc. Hoa tre được làm bằng những thanh tre dài khoảng 50 cm, đường kính khoảng 1 cm, đầu được vót thành xơ và nhuộm màu. Sau lễ dâng hoa, tre được tung ra trước sân đền cho người dự hội lấy để cầu may. Chém tướng giặc được thực hiện bằng cách chém một pho tượng, diễn lại truyền thuyết Gióng dùng tre ngà quật chết tướng cầm đầu giặc Ân là Thạch Linh (đá thành tinh).

Mặc dù có các nghi thức gắn với truyền thuyết Thánh gióng nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng: "Hội Gióng Sóc Sơn vẫn mang rõ tính chất hội cầu mùa theo tín ngưỡng dân gian phổ biến ở hầu hết hội xuân vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ".

Related Posts :

Ngày tết của các dân tộc Việt Nam

Nước Việt là một cộng đồng các dân tộc anh em. Mỗi dân tộc có một kiểu ăn tết riêng, đôi khi kéo dài rất dài ngày tạo thành mùa gọi là mùa Tết. Mỗi kiểu ăn Tết đều biểu hiện nét đặc trưng văn hoá riêng của dân tộc mình.

Tết cổ truyền của người Chăm

Ðồng bào Chăm còn gọi là Chàm, hiện đang sinh sống tại một số tỉnh như Bình Thuận, Ninh Thuận và một số ít tại Châu Giang (tỉnh An Giang).

Cũng như các dân tộc anh em khác, người Chăm ăn Tết cũng rất linh đình, nhộn nhịp. Hai lễ lớn nhất trong năm là Păng-Katê và Păng-Chabư được xem như cái Tết của họ.

Păng-Katê cử hành vào ngày 1 tháng 7 theo lịch Chăm tức khoảng tháng 9 dương lịch và Păng-Chabư cử hành vào ngày 16 tháng 9 theo lịch Chăm tức vào khoảng tháng 2, tháng 3 dương lịch.

Vào những ngày lễ, đông đảo đồng bào Chăm từ các nơi dổ về tại ba nơi hành lễ: đó là đền Pô Nưgar, tháp Pô Rômê ở huyện Ninh Phước (Ninh Thuận) và tháp Pô Klông Garai ở thị xã Phan Rang - Tháp Chàm.

Tết Păng Katê là ngày tế lễ các vua Chăm thuở xa xưa có công dựng nước và hướng dẫn việc nông tang, thuộc về dòng họ người cha, tượng trưng cho khí dương, cho nên phải cử hành vào buổi mai, còn Tết Păng Chabư là lễ cúng tế các lễ thần Pô Giang nữ, tức các hoàng hậu, công chúa Chăm, thuộc dòng họ mẹ, tượng trưng cho khí âm nên được cử hành vào buổi chiều tối.

Sáng mồng một Tết, các chức sắc Chăm cùng toàn thể bà con xa gần đều tề tựu về ba nơi hành lễ, quần áo thật mới mẻ, chỉnh tề. Các thầy Cả và các bà Bóng ngồi theo phẩm trật, thứ tự cao thấp trong căn nhà dựng trước cửa đền hay cửa tháp.

Lễ cúng gồm có hoa quả, bánh trái đủ loại, cúng cơm, rượu và thịt. Ba nghi lễ gồm các thầy Cả sư, phó Cả sư, thầy Bà xế, thầy Kè-ke vừa kéo đờn Kanhi (đờn mai rùa) vừa xướng văn tế lễ. Còn các bà Bóng thì lo dâng rượu và múa mừng.

Người Chăm gồm có 2 ngành: Ngành theo đạo Bà la môn và ngành theo đạo Hồi. Ngành theo đạo Bà la môn rất kiêng cữ thịt bò, còn ngành theo đạo Hồi thì kiêng ăn thịt lợn.

Ngày tết, người Chăm theo đạo Hồi thường đến nhà thờ đạo Hồi vào ngày đầu năm để nghe chức sắc, đọc kinh Coran, cầu nguyện đấng Alah, sau đó các tín hữu ra sông, ra suối tắm tẩy uế những cái xui, cái xấu của năm cũ và rước cái mới, cái tốt lành của năm mới.

Ngày mồng 2 Tết là ngày dành riêng cho các chức sắc ăn tết tại nhà. Qua ngày thứ ba trở đi, cho đến ngày thứ 7 hay thứ 9 thì đến lượt mọi người tổ chức ăn tết, lần lượt từ nhà này sang nhà khác. Tuy nhiên, mỗi gia đình chỉ lựa chọn cho mình một ngày duy nhất trong khoảng thời gian qui định mà thôi.

Họ giết lợn, giết gà vịt, bày đủ loại hoa quả, bánh trái. Trong dịp Tết, người Chăm không có tục kiêng cữ cho nên bạn bè, hàng xóm trong dịp ở xa có thể đến chung vui một cách thoải mái. Trong thời gian ăn Tết, người Chăm còn tổ chức các trò vui chơi như múa quạt, tổ chức đánh cồng chiêng, ca hát uống rượu, bắn cung.

Ngoài hai lễ lớn trên, người Chăm còn có các lễ khác trong năm như: Lễ cúng thần nông vào tháng 4 theo lịch Chăm, cử hành vào các đền, tháp; lễ cầu đảo (Chakap Hiâu Kron) cử hành tại các đập nước hay ở các bờ sông, bờ suối; lễ cúng ruộng (Pô Phùm) để cầu cho ruộng lúa tốt tươi và lễ Tống ôn (Rija Nưgar) tổ chức vào mồng một tháng giêng theo lịch Chăm, để cầu cho làng xóm, gia đình được thịnh vượng, an khang.

Tết Prơ-Giê-Râm của người Cơ Tu

Vào mùa xuân, lúc bắt đầu vụ mùa lúa mới, đồng bào các huyện Phước Sơn, Giằng, Hiên ở Quảng Nam tổ chức ăn Tết Prơ-giê-răm. Đây là ngày lễ lớn nhất trong năm. Nhà nhà đều trang trí hết sức đẹp đẽ. Các loại ghẻ, cung nỏ, giáo, mác, thanh la, trống, chiêng được lau chùi cẩn thận. ở nhà Guơi (nhà làng) người ta dựng cột đâm trâu bằng cây gạo trạm trổ, sơn vẽ đẹp mắt. Nhiều sinh hoạt văn hoá diễn ra tại nhà Guơi như kể chuyện, nhảy múa, hát dân ca. Con gái được dịp trao đổi tâm tình và rủ nhau chơi xuân kéo dài cả tháng...

Tết nhảy của người Dao

Người Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay trên các vách tường để đón mừng xuân.

Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là "Nhiang chằm Ðao" để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước tết Nguyên Ðán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã...

Tết giọt nước của người Xơ Đăng

Người Xơ Đăng ở Kon Tum ăn tết rất giản dị và chỉ có hai tết rất giản dị và chỉ có hai tết chính là tết Giọt nước và tết Lửa. Tết Giọt nước vào khoảng tháng 3 dương lịch. Sau khi mãn mùa, người Xơ Đăng bắt đầu sửa sang lại các máng nước và tổ chức lễ "cúng máng" để cầu mong Thần nước (Yang Dak) ban cho dân làng năm mới được mùa, nước non đầy đủ.

Người trong buôn làng mang choé, nồi đồng ra tại các máng nước để lấy nước mang về nhà, đồng thời tổ chức ăn uống, vui chơi suốt mấy ngày liền. Riêng "Lễ cúng máng nước" cho buôn làng thì được tổ chức tại nhà Rông, do thầy cúng tổ chức vui say, ca hát, nhảy múa, gái trai được tự do trao đổi tâm tình.

Tết của người H’Mông

Người H'Mông ở vùng cao Tây Bắc và Việt Bắc ăn tết rất thịnh soạn, chẳng kém gì ở miền xuôi. Trong nhà trang hoàng đủ màu sắc, nhưng màu đỏ là được ưa chuộng nhất. Tết Nguyên đán của người H'Mông gọi là NaoX-Cha. Ðể chuẩn bị sẵn con lơn béo. Ngoài thịt ra, còn có bánh bằng bột nếp, bánh chưng ít khi dùng. Tết của người H'Mông thường tổ chức giữa mùa đông giá rét, trước hay sau Tết dương lịch chỉ có mấy hôm. Ðêm giao thừa các gia đình thường cử con trai đi "mở nước", tức là đi lấy nước ngoài sông suối đem về nhà cúng tổ tiên.

Tết của người Hrê

Tết của người Hrê ở Quảng Ngãi cũng kéo dài suốt vài tháng liền. Mỗi gia đình phải lo nấu bánh tét, làm rượu cho thật nhiều. Nhà giàu có phải nấu từ 20 đến 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ vài con trâu để đãi khách và bà con trong buôn làng. Tất cả mọi người đều tề tựu về nhà chủ làng để ăn mừng, chúc tụng lẫn nhau. Sau đó mới lần lượt đến các nhà khác. Họ vừa ăn uống vừa múa hát. Ðàn ông thì đeo ống chinh, còn đàn bà thì đeo ống bương lấy hai tay vỗ vào đầu ống sẽ tạo thành tiếng bập bùng, bập bùng... Họ thích trò chơi nhảy kẹp. Hai người một nam, một nữ dùng một đòn nhảy dài chừng hai mét, trơn láng rồi đập vào nhau. Cứ hai người ngồi đập thì hai người nhảy, thay đổi cho nhau.

Tết bỏ mả của người Gia Rai

Tết bỏ mả của đồng bào Gia Rai ở tỉnh Gia Lai cũng tương tự như tết ăn nhà Mả của đồng bào Ba Na nhưng được tổ chức lớn hơn nhiều. Trong suốt thời kỳ Bỏ Mả, bà con trong buôn làng kéo nhau đi viếng từng nhà để thưởng thức của ngon vật lạ. Mỗi khi nghe tiếng thanh la, trống, cồng vang lên ở ngoài nghĩa địa là báo hiệu lễ Bỏ Mả. Người trong buôn nối đuôi nhau, tay cầm đuốc cháy sáng rực tiến về nghĩa địa để chia vui cùng người thân thuộc. Mọi người không quên mang theo rượu, thịt để góp vui cùng gia đình gia chủ trong suốt cuộc lễ. Tùy theo gia cảnh của từng người mà chủ lễ tổ chức đơn giản hay rườm rà. Gia chủ đứng trước ngôi mả có cắm cây nêu thường làm bằng cây gạo treo nhiều lá bùa xanh đỏ bay phấp phới theo chiều gió và đưa tay lên trời lâm râm khấn vái Yàng.

Tết của người Thái

Người Thái ở Sơn La và Lai Châu đón tết hầu như suốt cả mùa, gọi là mùa Tết. Ðầu tiên là tết Soong Sịp (tết cơm mới) sau khi lúa ở ngoài đồng đã chín vàng họ giết trâu, mổ lợn, lấy lúa mới đồ xôi nếp để cúng lễ. Mọi nhà đều tổ chức ăn uống vui vẻ. Sau tết Soong Síp là tết Kim Lao Mao (tết uống rượu), tết ông Táo và lớn nhất là tết Nen-Bươn-Tiền (tết Nguyên đán).

Vào ngày đầu năm, họ không quên đem dao, rựa vừa đi ra đường vừa phát quang để thông thoáng cho năm mới. Vui nhất là các hội Xoè Thái nổi tiếng, tha hồ vui chơi cho đến rằm tháng giêng mới mãn.

Tết Cơm mới của người Ê Đê

Tết Cơm mới của người Rhadé hay Ê Đê ở Ðắk Lắk là vào khoảng tháng 10 dương lịch. Lúc ấy lúa đã chín vàng cả nương rẫy. Mỗi gia đình mang gùi đi tuốt lúa về phơi khô giã lấy gạo để tổ chức ăn mừng lúa chín. Tuỳ theo gia cảnh giầu hay nghèo mà các gia đình giết trâu, bò, heo, gà nhiều hay ít.

Lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai choé rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài đĩa cơm. Gia chủ hay thầy cúng lầm rầm khấn vái: "Lạy thần Mtâo Kia, thần H'Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng con nào thóc lúa, nào kê, nào ngô. Chúng con thỉnh chư vị thần từ phía Ðông dãy Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng giám. Lạy thần Aê Nghi ở dưới đất, lạy thần Aê Ngăn ở trên trời... xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa..."

Tết của người Chơ Ro

Người Chơ Ro và Chu Ru sinh sống tại Ðồng Nai, Lâm Ðồng và Bà Rịa - Vũng Tàu. Hai tết lớn của đồng bào Chơ Ro là lễ cúng thần rừng và lễ cúng thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng là lúc các cô gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon như bánh tét, bánh ống, bánh dầy... Sau lễ cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do gia chủ đứng ra khoản đãi tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ trong buôn làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.

Người Cơ Ho hay sinh sống ở Lâm Ðồng. Họ ăn tết sau tết Nguyên Ðán của người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô Lir Bông, tức tết mừng lúa về nhà. Tết này kéo dài cả tháng. Hai chữ Lir Bông có nghĩa là cót thóc. Người Cơ Ho rất quý trọng thóc lúa, vì thóc lúa là những hạt ngọc của Yàng ban phát. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ làng và nhiều gia chủ khác. Người ta lấy máu gà hiến sinh bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Máu gà còn được trộn chung với vỏ cây đa, củ nghệ, các con mối đất. Cỏ tranh giã nhỏ để bôi lên ngực, lên trán những thành viên trong gia đình, sau đó còn bôi lên những đồ gia dụng.

Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người Cơ Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui, cứ thế cho đến cả tháng trời mới mãn.

Related Posts :

Nét đẹp văn hóa của ngày Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của người Khmer

Tết Chôl Chnăm Thmây mang ý nghĩa là đón mừng năm mới, mừng thêm một tuổi, tương tự như Tết Nguyên đán của người Việt, với hy vọng năm mới đến sẽ đem lại những điều may mắn. Ngoài ra, Tết Chôl Chnăm Thmây còn có ý nghĩa chấm dứt thời kỳ nắng hạn, bước sang thời kỳ có nước trời dồi dào để chuẩn bị cho vụ mùa tới.

Tết được diễn ra vào giữa tháng 4 dương lịch (tháng 3 âm lịch), không cố định ngày, hàng năm đều do các nhà thiên văn bói toán ấn định, tính theo vòng quay trái đất quanh mặt trời trong một năm sẽ định ra được ngày, giờ cụ thể trong năm đó.

Đi đến những khu vực có đông đồng bào Khmer sinh sống trong nhưng ngày tết, chúng ta sẽ bắt gặp không khí náo nhiệt của bà con chuẩn bị Tết cổ truyền của mình. Nào là chuẩn bị ăn mặc gọn đẹp, nhang, đèn, gạo, rượu, thịt, làm bánh…để phục vụ cho việc ăn uống, đãi khách và dâng cho nhà chùa. Mọi người sửa sang bàn thờPhật, trang hoàng nhà cửa, quét dọn sân nhà, kết cổng chào…

Trong đêm giao thừa, trên bàn thờ có bày sẵn 5 nhánh hoa, 5 đèn cầy, 5 cây nhang, 5 hạt cốm và nhiều loại trái cây. Cha mẹ, ông bà tập hợp con cháu lại , ngồi xếp chân về một phía trước bàn thờ tổ tiên, đốt nhang đèn, vái ba cái để tiễn đưa Têvêđa cũ và rước Têvêđa mới, mong được ban phúc lành. Họ tin rằng Têvêđa là ông tiên được trời sai xuống chăm sóc dân chúng trong thời gian.

Tết Chôl Chnăm Thmây diễn ra trong ba ngày.
Ngày thứ nhất gọi là Thngay Chôl Chnăm Thmây (ngày vào năm mới) (lễ rước “Mâh Sangkran mới”). Lễ này có thể tổ chức sớm hay muộn trong ngày, miễn là chọn đúng giờ tốt, theo quan niệm của người Khơme. Mọi người được tắm gội, mặc quần áo đẹp, mang nhang đèn, lễ vật đến chùa dâng lên các vị sư và được nghe các vị chúc tụng năm mới. Dưới sự điều hành của ông Acha, mọi người xếp hàng đi vòng quanh chính điện 3 lần để làm lễ chào mừng năm mới. Đêm lại, nghe các vị sưtụng kinh cầu an năm mới, cầu cho “Quốc thái dân an” và hưởng được 4 pháp của đức Phật (sống lâu, sắc đẹp, an vui và sức mạnh), rồi được nghe các vị thuyết pháp về ý nghĩa của lễ Chôl Chnăm Thmây và sau đó thanh niên nam nữ cùng nhau múa hát trước sân chùa.

Ngày thứ hai gọi là Thngay Von-boch: mỗi gia đình làm lễ dâng cơm buổi sớm và buổi trưa cho các vị sư sãi. Theo đạo Phật Tiểu thừa, thì các ngày lễ tín đồ đi chùa lạy Phật có bổn phận mang cơm và thức ăn dâng cho sư sãi và lắng nghe các vị chúc tụng, cầu an, thuyết pháp giảng đạo, rồi các thanh niên nam nữ vui chơi trước sân chùa. Buổi chiều, người ta làm lễ “đắp núi cát” (Puôn phnôm khsach) ngay tại khuôn viên chùa, để mong gặp được điều lành. Tập tục này cũng bắt nguồn từ một sự tích của một thợ săn bắn gắn với ma thuật cầu mùa của người xưa.

Ngày thứ ba gọi là Thngay Lơn-săk (ngày thêm tuổi), mới chính là ngày chánh cũng là ngày cuối tết, tương tự như hai ngày đầu, sau khi đã dâng cơm sáng cho các vị sư ở chùa, người ta làm lễ tắm tượng Phật bằng nước có ướp hương thơm, rồi sau đó tắm cho các vị sư cao niên ở chùa, nhằm rửa sạch hết cái cũ, những bụi bặm của trần thế trong năm cũ, để bước sang năm mới với một thân thể sạch sẽ và hoàn toàn mới. Tiếp theo đó là lễ cầu siêu (Băng Skôl), các vị sư được mời đến tháp lưu giữ hài cốt của những người quá cố để cầu kinh, mong vong linh của họ sớm được siêu thoát. Đến trưa, mọi người về nhà để làm lễ tắm tượng Phật thờ trong từng gia đình, để tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn đức Phật, rồi chúc mừng cha mẹ, ông bà, dâng bánh trái để tạ ơn, đồng thời cũng để rửa những điều không may của năm cũ để sang năm mới vạn sự như ý. Tết Chôl Chnăm  Thmây được kết thúc.

Trong ba ngày hội Chôl Chnăm Thmây, bà con Khmer còn đi thăm hỏi, mừng tuổi năm mới cho nhau, chúc nhau sức khỏe, cuộc sống yên vui, phát đạt. Tối đến, người ta đốt pháo thăng thiên, thả diều, đánh quay lửa... Các cụ già kể chuyện thần thoại, cổ tích cho con cháu. Gái, trai tham gia các cuộc hát đối đáp aday, hát dùkê, múa rômvông./.

Related Posts :

Thực đơn xanh ngày tết

Gỏi bưởi

Nguyên liệu: ½ quả bưởi, 150g tôm khô loại ngon, 100g củ kiệu, 1 con khô mực, 50g mè, 1 củ cà rốt, 1 bịch bánh phồng tôm, củ hành tím, rau thơm, nước mắm, chanh, tỏi, ớt, giấm. 
Cách làm: Bưởi lột vỏ tách từng tép nhỏ. Tôm khô ngâm nước cho mềm, xào thơm với tỏi. Mè rửa sạch rang vàng. Khô mực nướng vàng, đập tơi, xé sợi. Cà rốt tỉa hoa, ngâm chua. Bánh phồng tôm chiên. Rau thơm rửa sạch, xắt nhỏ. Hành tím phi thơm. 
Pha nước mắm theo tỉ lệ: 1muỗng lớn nước mắm + 1 muỗng lớn đường + 1 muỗng lớn nước cốt chanh + 1 muỗng nhỏ muối + tỏi bằm + ớt bằm. 
Trộn bưởi với mè, tôm, khô mực, rau thơm, rưới nước mắm đã pha vào. 
Lưu ý: Bưởi có thể lột bỏ phần vỏ, chừa phần áo lụa và để trong tủ lạnh trước. Khi trộn gỏi, bưởi sẽ dễ tách hơn. 

2 Bì cuốn chay

Nguyên liệu: 50g bún tàu, 4 miếng đậu hủ chiên, 2 trái dưa leo, 1 củ khoai lang, rau thơm, thính gạo, muối, bột ngọt, đường, bánh tráng dẻo. 
Cách làm: Khoai lang gọt vỏ cắt sợi, chiên vàng. Đậu hũ cắt mỏng chiên vàng, xắt sợi. 
Bún tàu cắt ngắn, chiên vàng. Dưa leo bỏ hạt, lạng mỏng, cắt sợi, bóp muối, vắt ráo. 
Trộn tất cả các nguyên liệu trên với thính + muối + bột ngọt, nêm vừa ăn. 
Trải bánh tráng, xếp rau sống, hỗn hợp bì chay lên trên rồi cuốn chặt tay. 
Pha nước tương + đường + chanh + ớt + chút nước, nêm vừa ăn. 
Lưu ý: Món này nên trộn sẵn phần bì, khi nào ăn đem cuốn với rau, bánh tráng. 
Thính gạo làm bằng gạo nếp sẽ ngon hơn, phần thính này có thể làm trước và để dành trong ngăn mát. 
Nên để bánh tráng trong lá chuối để bánh được dẻo, dễ cuốn hơn. 

Bò cuộn củ kiệu

Nguyên liệu: 300g bò phi lê, 50g mỡ gáy heo, 50g củ kiệu chua, gia vị, bánh hỏi, bánh tráng, rau sống. 
Cách làm: Bò xắt mỏng, đập mềm ướp với chút bột nêm, dầu ăn, tiêu, tỏi. 
Mỡ gáy luộc chín, xắt mỏng. Trải miếng thịt bò, xếp miếng mỡ, củ kiệu, cuộn lại, đem chiên áp chảo hoặc nướng. 
Hành lá cắt nhỏ, nấu sôi dầu ăn, chế vào hành lá. 
Món này ăn với rau sống, bánh hỏi, chấm nước mắm chua ngọt. 
Lưu ý: Thịt bò có thể ướp trước, cất trong tủ đông, khi nào dùng lấy ra cuộn thịt bò sẽ rất mềm. 

Lẩu nấm

Nguyên liệu: 500g xương gà, 50g nấm hương, 50g nấm rơm, 50g nấm mỡ, 50g nấm đùi gà, 100g nấm kim châm, 50g nấm bào ngư, 1 cái đùi gà, 2 miếng đậu hủ, 1 củ cà rốt, miến, gia vị. 
Cách làm: Rửa sạch xương gà, trụng qua nước sôi, hầm lấy nước ngọt, nêm vừa ăn. Các loại nấm rửa sạch, cắt vừa ăn. Cà rốt, đậu hũ cắt miếng vừa ăn. Miến khô ngâm nước lạnh cho mềm, vớt để ráo nước. 
Khi ăn cho nước vào nồi lẩu, xếp nấm, rau ra dĩa, trụng từ từ. 
Lưu ý: Để nước dùng trong, khi nấu nước dùng lúc đầu để lửa lớn cho sôi, vớt bọt sạch rồi chuyển lửa nhỏ. Có thể hầm nước dùng trước để trong tủ đông, khi ăn lấy ra nấu sôi lại. Các loại nấm mua về gói trong giấy báo. 

Cơm sen
Nguyên liệu: 500g gạo thơm, 50g tôm sú, 50g jambon, 50g chả lụa, 50g hạt sen, hoa sen, lá sen, tỏi, bột nêm, dầu mè. 
Cách làm: Gạo vo sạch, nấu chín. Cà rốt xắt hạt lựu, ngâm nước lạnh. 
Chả lụa, jam bon xắt hạt lựu. Hạt sen hấp chín. Tôm sú hấp chín xắt hạt lựu. 
Phi tỏi cho thơm, cho tất cả các nguyên liệu trên vào xào, nêm chút bột nêm, tiêu, trộn đều với cơm rồi gói vào lá sen. 
Trước khi ăn hấp nóng. 
Lưu ý: Lựa gạo mới cơm sẽ mềm và ngon hơn. Lá sen chưa dùng tới nên gói trong giấy báo và để dành trong ngăn mát tủ lạnh.

Related Posts :

Cách chọn mua trái cây


Dưa hấu: chọn dưa hấu có dáng cân đối, vỏ cứng chắc nhẵn nhụi, vân sáng, phía dưới ngả màu vàng, rốn lõm sâu, núm giữa rốn có màu xám. Khi mua, dùng tay nâng quả dưa lên và gõ nhẹ, nếu kêu bình bịch và có vẻ nặng và cảm giác bên trong rung rinh thì là dưa ngon. Tiếng giòn có vẻ nhẹ tay, dáng méo mó, rốn nhô cao là dưa chất lượng kém

Chuối già: chọn trái không quá to, da vàng thâm kim ăn thơm và dẻo hơn là loại trái to
Chuối cao: chọn trái nhỏ đều, no nẩy mình, màu vàng ươm, vỏ mỏng
Chuối cơm: trái to hơn chuối cao, màu vàng, vị chua
Chuối xiêm: chọn trái màu vàng, da thâm kim, ăn dẻo và ngọt

Bưởi: ngon nhất là bưởi năm roi, nên chọn trái nặng, vàng da, bóng, phía dưới bầu, phía trên thon. Vị ngọt lịm, không hạt, có chua cũng chỉ là chua nhẹ

Cam quýt: chọn trái mỏng vỏ, nhẵn, (ngoại trừ cam sành), cầm nặng tay, cuống tươi màu vàng, không tì vết, không dập úng

Hồng đỏ: lựa loại đỏ tươi có hơi  bột, nhưng phải đủ chín để không bị chát. Hồng đỏ nếu chọn đúng loại ngon sẽ dẻo và ngọt bùi
Hồng trứng: màu đỏ cam, thường nhỏ trái hơn hồng đỏ, chọn loại có màu cam và vàng lẫn lộn sẽ ngọt hơn. Hồng trứng thường không có hạt hoặc ít hạt

Bôm, lê: chọn trái vỏ căng, mởn, không tì vết

Thơm: chọn trái mắt to, vuông, chin vàng

Táo ta: chọn trái da xanh, ửng vàng, tròn đều, không chấm sâu

Mít: chọn trái cuống nhỏ, gai thưa, tay ấn mềm có mùi thơm

Xoài: xoài cát da căng, vàng đều, đầu cuống chin vàng và cứng. trên bụng xoài dưới chót đuôi có 1 mắt nhỏ, mắt nhỏ là xoài hột nhỏ

Sầu riêng: chọn trái có gai nở tròn trịa, không bị lép, không nứt vỏ, lấy tay bóp hai gai câu vào thấy không cứng là trái chín, không sượng


Măng cụt: chọn trái to, cuống tươi, vỏ bóng, bóp thấy hơi mềm tay, bụi phấn bám quanh là trái chín cây, ít mủ, cơm bên trong sẽ dày và rất ngon

Mãng cầu xiêm: chọn trái có vỏ căng bóng, gai đều, cách khoảng xa
Mãng cầu ta (na): chọn trái nở gai đều, mắt thấp, đường rãnh giữa các mát cạn là mãng cầu dai, ăn ngon

Bơ: chọn trái vỏ bóng, không bị úng, muốn chọn bơ ăn liền thì ấn vào chổ cuống, nếu mềm thì là bơ đã chín

Sapoche (lồng mứt): chọn lồng mứt căng mọng, sờ tay thấy mềm đều là trái ngon, nếu có chổ cứng tay thì không nên mua, vì chổ đó dễ bị sượng và có mủ trắng, ăn chát

Nhãn, chôm chôm, vải: trái to vỏ mỏng, nặng, có nhiều nước

Related Posts :

Cách phòng tránh tiêu chảy sau ngày Tết!

 Nên mua thức ăn trữ trong tủ lạnh vừa đủ dùng trong 2 ngày (30 Tết và mùng 1 Tết) mà thôi.

 Nếu được nhận quà biếu tặng là các loại thịt nguội, chả lụa, giò sống,… quá nhiều thì tốt nhất nên chia sẻ cho người thân trong nhà dùng. Còn nếu gia đình ít người muốn trữ những thức ăn đó để dùng trong 1 tuần thì nên tăng nhiệt độ tủ lạnh lên và kiểm tra nhiệt độ tủ lạnh thường xuyên, để tránh thức ăn bị nhiễm khuẩn…. 

 Không trữ rau cải quá nhiều và quá lâu trong tủ lạnh vì như thế sẽ làm mất các Vitamin có trong rau cải và rau cải có thể bị nhiễm khuẩn và rau cải dễ bị dập úng, không sử dụng được… gây lãng phí… 

 Nồi thịt kho và nồi khổ qua hầm luôn có mặt trong ngăn bếp của mọi nhà. Tuy nhiên, gia đình nên tính đến khẩu phần ăn của cả nhà mà nấu dùng ở mức tương đối hợp lý, không nên kho 1 nồi quá lớn và dùng quá lâu hơn 7 ngày,… Mặc dù mỗi ngày chúng ta đều mang ra kho đi kho lại nhiều lần, nhưng nếu thức ăn dùng quá lâu cũng rất dễ bị nhiễm khuẩn… Nếu kỹ lưỡng hơn, chúng ta nên chừa 1 ngăn trống trong tủ lạnh để chứa 2 món này qua đêm…. 

 Và để bảo vệ sức khỏe tốt trong những ngày Tết, chúng ta cũng cần phải có chế độ ăn cân đối và hợp lý, chế độ ngủ nghỉ đúng giờ,… có thể kết hợp tập thể dục vận động mỗi ngày giúp tiêu hao năng thừa trong cơ thể… Nếu áp dụng một cách sinh hoạt lành mạnh như thế, mình tin chắc những ngày nghỉ Tết sẽ trở thành những ngày nghỉ tuyệt vời, giúp mọi người xả stress và có phong độ khởi động cho công việc và học tập một cách hoàn hảo hơn!

Related Posts :

Bí quyết ăn tết mà không tăng cân

Cả nhà luân phiên: Tính sơ sơ thì một gia đình có ít nhất 3 bữa cỗ Tất niên phải tham dự là Tất niên nhà mình, nhà nội và nhà ngoại. Chưa kể Tất niên hàng xóm, bà con và đồng nghiệp thì con số cộng dồn có thể lên tới hàng chục. Do đó cách tốt nhất là vợ chồng cha mẹ thay phiên nhau đi ăn Tất niên, vừa đáp lễ đầy đủ vừa không biến Tất niên trở thành một cơn ác mộng 

Đường dài cần sức bền: Gọi là Tất niên nhưng có nhà sẽ tổ chức từ rất sớm (tầm 15 Tết), có nhà lại để tới cận Năm mới (30 Tết) mới tất bận rộn ràng. Thế nên với lịch Tất niên kéo dài cả nửa tháng, bạn phải luôn trong tâm thế “kìm hãm sự sung sướng” của mình để giữ sự thòm thèm cho cả mùa Tết. 

Chọn những món rau quả và ít chất béo: Nếu điểm danh sơ một bàn tiệc Tất niên thì sẽ thấy thịt thà luôn được gia chủ ưu tiên ở vị trí đầu tiên. Chẳng là trong tâm thức của người Việt, tiệc tiễn năm cũ và đón năm mới đâu thể làm qua loa lấy lệ. Nhưng hãy nhớ rằng bạn còn cả 1 đoạn đường dài phía trước, và hãy chăm sóc mình thật tử tế bằng rau củ, chất xơ và các chất ít béo nhé 

Nói không và tảng lờ: Đừng để các buổi tiệc Tất niên trở thành thủ phạm chính cho việc bạn không thể nào chui vừa bộ cánh mới keng trong năm mới. Hãy biết nói không khi được động viên “gắp thêm chút nào” hoặc “ăn tận tình vào” nhé! Hơn nữa, Tất niên đâu phải để “ăn cho no” mà là dịp gặp mặt thân tình kia mà. Hãy tích cực chuyện trò hỏi han mọi người để vừa thắt chặt tình thân vừa “đánh lạc hướng” những gia chủ quá “nhiệt tình”. 

Sử dụng các biện phát hỗ trợ tiêu hóa nếu cần: Khi áp dụng tất cả các biện pháp trên mà vẫn không xi nhê, bạn có thể sử dụng các loại men tiêu hóa bổ sung axit cho dạ dày hoặc chống đầy hơi khó tiêu để hóa giải hậu quả của việc chạy sô Tất nhiên quá nhiều nhé! Quan trọng là hãy giữ cho mình một tinh thần thật thoải mái để tận hưởng không khí tiệc tùng cuối năm và bắt đầu một năm thật khỏe mạnh và thành công bạn nhé!

Related Posts :

Cách gói bánh chưng hương vị Bắc ngày Tết

Bánh chưng là một phần không thể thiếu trong ngày tết ở Việt Nam. Để tạo ra một chiếc bánh vừa đẹp, vừa thơm ngon, cần đòi hỏi những nguyên liệu phù hợp và bàn tay khéo léo. Tuy nhiên cũng không quá khó để tạo ra một chiếc bánh ưng ý, nếu bạn làm theo hướng dẫn dưới đây.

Nguyên liệu chính để làm bánh chưng gồm có: Gạo nếp bắc, thịt lợn (thịt ba chỉ), đậu xanh, lá dong, lạt, gia vị

Chọn lá dong loại bánh tẻ (không quá già hoặc quá non), mỗi chiếc bánh cần 4 lá dong, sau khi lựa chọn xong, ngâm lá dong vào nước, rửa sạch và để ráo nước.

Ngâm gạo nếp ít nhất là 8 tiếng hoặc qua đêm, đãi sạch sạn, vớt ra để ráo nước.

Đậu xanh xay làm đôi, ngâm nước cho mềm, sau đó đãi sạch vỏ, hấp chín và xay nhuyễn

Thịt ba chỉ cắt miếng hình ô cờ, rửa sạch, ướp gia vị vừa ăn gồm muối, tiêu, hành củ, để 15 phút cho ngấm gia vị

Cách gói bánh:

Dùng một chiếc mâm rộng, xếp hai chiếc lá to song song, mặt không có gân hướng xuống dưới, sau đó xếp hai chiếc lá khác lên trên theo hình chữ thập, mặt lá không có gân hướng lên phía trên

Cho khoảng nửa kg gạo nếp lên trên lá, sau đó cho đậu xanh, thịt lợn, sau đó cho tiếp đậu xanh lên trên, cuối cùng là cho thêm nửa ký gạo lên trên nữa, sau đó cuộn 2 chiếc lá dong phía trên vào, bẻ hình vuông sắc cạnh, tiếp theo gói 2 chiếc lá dong bên ngoài vào, dùng lạt buộc lại cho chắc

Lưu ý: khi gói bánh phải gói chặt tay để khi luộc bánh mới chắc, dẻo và không bị thấm nước

Cách luộc bánh

Dùng một ít cuốn lá dong và lá nhỏ lót đáy nồi, sau đó xếp từng cặp bánh vào nồi, đổ nước ngập bánh, luộc từ 10 - 14 tiếng đồng hồ

Khi bánh chín, vớt ra, rửa sạch, để lên bàn, sau đó dùng tấm ván chèn lên, có thể chèn thêm một số vật nặng cho bánh rút nước.

Related Posts :

Lạ kỳ phong tục đón tết của người Thái

Về với Mộc Châu (Sơn La) dù mới cuối đông, nhưng dường như sắc xuân đã "gõ cửa" miền đất thơ mộng của núi rừng Tây Bắc. Đến nơi đây, du khách không những được thỏa mình với hoa xuân và sương phủ, mà còn được đắm chìm với các phong tục của các dân tộc bản địa nơi đây. Với những nét đặc sắc trong phong tục đón Tết cổ truyền mang đậm bản sắc riêng có của người Thái.

Không giống như một số dân tộc ít người khác, một năm thường có nhiều cái Tết, người Thái trên cao nguyên Mộc Châu chỉ ăn tết chung với Tết Nguyên đán của cả nước. Tuy nhiên, tục đón năm mới của người Thái lại có nhiều điều thú vị, mang đậm bản sắc riêng. Theo tập tục, người Thái bắt đầu ăn tết từ ngày 25 tháng Chạp Âm lịch cho tới hết mồng 10 tháng Giêng của năm mới.

"Độc, lạ"... cơm cúng tất niên

Ban ngày, trời Mộc Châu thường nắng nhẹ và se lạnh. Nhưng đêm đến, cái lạnh dường như "nặng đô" vì sương núi xuống. Không gì thích bằng việc được nhâm nhi rượu cần và ngồi nghe người già kể chuyện về tập tục đón tết xưa, nay.

Cũng như các dân tộc khác trên mọi miền đất nước, mâm cơm trong ngày Tết của người Thái được chuẩn bị kỹ càng và chu đáo. Tuy nhiên, dù có thay đổi nhưng mâm cơm cúng tết của dân tộc Thái vẫn giữ được nét cầu kỳ riêng biệt.

Thầy mo bản Áng, Hà Văn Nhanh kể rằng, xưa kia mâm cơm cúng trong ngày Tết của người Thái không thể thiếu các món ăn như cơm mới, cá đồ, cá chua, cơm đồ xôi trộn con cá, chuột khô, thịt hươu, nai khô, cơm cốm, măng khô... Riêng món thịt hươu, thịt nai thường có được nhờ săn bắn và chuẩn bị từ trước đó khoảng nửa tháng. Và theo phong tục xưa, đây là những món bắt buộc phải có trong mâm cỗ cúng Tết.

 "Cỗ cúng có nhiều món lắm! Rất nặng, phải bê lên đặt xuống tới những 9 lần mới đặt được tới bàn thờ tổ tiên. Người Thái quan niệm, cỗ cúng tết phải đủ đầy, nhiều thịt, nhiều cá,... thì tiên tổ mới phù hộ cho làm nương được mùa, cái bụng no quanh năm" - ông Nhanh chậm rãi kể.

Theo tập tục, người Thái cúng tổ tiên từ 25 tháng Chạp tới hết ngày mùng 5 của năm mới. Xưa kia người Thái cúng tổ tiên bằng những sản vật săn bắn được, còn ngày nay dù không đổi nhiều nhưng cũng có vài điểm khác.

Vừa nhấp ngụm rượu cần, thầy mo Nhanh kể tiếp, "sau này, người Thái mới có tục gói bánh chưng và thường gói vào 29 Tết. Bánh chưng được gói thành hai loại đen và trắng. Để làm bánh chưng đen, dân bản đốt rơm lên, lấy tro giã lẫn gạo nếp rồi mới gói. Muốn bánh có màu đen đẹp bóng, ngay từ tháng 10 âm lịch, sau vụ gặt lúa mùa, người ta chọn nếp dẻo thơm nhất và rơm cọng to, có màu vàng ươm về cất sẵn.

Ngoài ra, trước khi gói bánh thêm ít hạt vừng xay nhỏ trộn vào để tạo vị đậm đà cho bánh. Thường thì bánh chưng của dân tộc Thái ít dùng nhân bởi họ quan niệm, "hương vị của tết ở trong bánh chưng chủ yếu thể hiện ở hương vị của nếp mới, rơm vàng và lá dong. Theo họ, đó là tinh hoa của thành quả lao động để dâng lên tổ tiên (ma nhà).



Tục đón giao thừa "Pông Chay"...

Tiếp lời thầy mo Nhanh, bà Đinh Thị Loan (vợ thầy Nhanh) vui vẻ kể lại, sau khi chuẩn bị tươm tất để đón Tết, người Thái sẽ cúng tất niên vào đêm 30. Người Thái có tục đón giao thừa "Pông Chay". Thường cả nhà không ai ngủ, đèn luôn sáng, hương nhang không được tàn. Cả nhà ngồi quanh bếp lửa, làm các loại bánh trái như bánh ít, bán rán, đồ cá, moọc, nạp... thỉnh thoảng chủ nhà lại đánh ba tiếng chiêng báo hiệu giờ giao thừa sắp đến.

Đúng giờ giao thừa, các loại bánh trái, xôi đồ, cá khô, xôi cốm,... hai cơi trầu (mỗi cơi 8 miếng); một ấm trà xanh, rót 8 chén rượu, tất cả được xếp vào thúng. Người vợ mở hòm lấy các loại vải thổ cẩm, khăn váy, quần áo mới, vòng tay, bạc nén... Những thứ đồ đó được đem đặt tại bàn thờ ma nhà. Khăn mũ chỉnh tề, chủ nhà kính cẩn đọc bài cúng "chào đón tổ tiên xuống tề tựu". Sau bài cúng, con cái trong nhà thay phiên nhau túc trực để tiếp đón tổ tiên - bà Loan kể tỉ mỉ.

 Ngày nay, ở một số nơi tổ chức các hoạt động tập thể đêm giao thừa, có hoạt động văn hóa đã trở thành tập tục khá riêng biệt và độc đáo của người dân tộc Thái như hái hoa dân chủ. Hoạt động văn hóa này thường do đoàn thanh niên, có nơi do hội phụ nữ... tổ chức.

Một phong tục của người Thái không thể thiếu được trong sáng ngày mùng 1 đầu năm, đó là tục đi lấy nước ở suối về. Người Thái quan niệm rằng, nước là điều may mắn, đem lại sự sống, sự tốt tươi. Cả làng đi lấy nước nếu nhặt được đồ trong khi đi lấy nước thì họ cho là may mắn và vui mừng mang về nhà.

Related Posts :

Chế độ ăn uống khỏe mạnh ngày Tết cho em bé

Tết Nguyên Đán là thời điểm các cả gia đình bận rộn với các sinh hoạt lễ tết. Chính vì thế, việc chăm sóc dinh dưỡng cho các em bé đôi khi bị lệch khỏi quỹ đạo với những ngày bình thường khác. Với một chút kinh nghiệm dưới đây phần nào sẽ giúp bạn tiết kiệm thời gian chăm sóc con mà vẫn đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng cho các bé.

Cho bé uống nước thường xuyên

Ngày tết các bé sẽ tha hồ được ăn nhiều đồ ngọt, nhiều đạm và béo, bên cạnh đó các bé sẽ được mặc đồ mới với nhiều mẫu mã phức tạp, khiến cho bé dễ mất nước mà cần nhiều nước hơn ngày thường. Bạn nên chuẩn bị cho bé đầy đủ nước khi dẫn bé đi chơi họ hàng ngày Tết. Tránh cho bé uống quá nhiều nước ngọt sẽ làm cho bé dễ bị đau bụng.

Dự trữ rau xanh đầy đủ trong nhà

Bạn nên mua nhiều rau củ quả dự trữ trong tủ lạnh trong những ngày Tết do những ngày này các chợ sẽ không mở cửa. Ngoài các thức ăn ngon ngày Tết, bạn cũng cần bổ sung những món rau, những món canh để cân đối dinh dưỡng cho bé. Ăn nhiều rau sẽ giúp bé không bị táo bón, lở miệng, mọc mụn nhọt. Ăn trái cây cũng góp phần làm khẩu phần ngày tết đỡ khô khan, đủ chất tươi.

Kiểm soát đồ ngọt của bé

Ngày Tết các bé sẽ được thoải mái ăn những món ăn ngon, những bánh kẹo ngọt thỏa thích. Tuy nhiên, những đồ ăn này lại quá nhiều năng lượng khiến bé dễ bị táo bón hay sốt nhẹ. Bạn cần kiểm soát lượng thức ăn ngọt của bé mỗi ngày để đảm bảo sức khỏe cho bé cũng như tránh tình trạng lên cân quá mức.

Hạn chế ăn ở ngoài đường Khi đi chơi Tết xa nhà, bạn không nên ăn ở các quán bán lề đường, bán ngoài trời, sử dụng nước không sạch, nhiều ruồi nhặn, bụi bặm, dễ gây tiêu chảy cho bé. Nước đá làm từ nước không đảm bảo vệ sinh cũng là một nguyên nhân gây rối lạn tiêu hóa. Cháo ăn liền, mì ăn liền, nước uống đóng chai, sữa tươi hoặc sữa chua đóng gói rất tiện dụng và đáng tin cậy về vệ sinh. Ngoài lý do sức khỏe cho bé, việc chặt chém ngày Tết không phải là vấn đề quá cũ…
Duy trì thời gian ngủ của bé

Dịp lễ tết, mọi người thường bỏ qua những thói quen thường ngày của mình như ngủ đúng giờ, đủ giấc. Thay vào đó là các buổi đi chơi. Các bạn nên duy trì thời gian ngủ cho bé để tránh việc bé thiếu ngủ, dễ bệnh.

Thực hiện tốt các chia sẽ trên, bạn không cần phải lo lắng cho sức khỏe của bé các ngày Tết. Chúc bạn và gia đình có một Tết 2013 vui vẻ và hạnh phúc cùng bé yêu.

Related Posts :

Phong tục đón giao thừa trên thế giới

Vào lúc giao thừa, dân các bang miền Nam nước Mỹ cố gắng ăn thật nhiều củ cải và đậu mắt đen, bởi mỗi củ cải sẽ giúp họ kiếm được hẳn 1.000 đôla, còn mỗi hạt đậu tương ứng với 100 cent cho năm mới! Nhưng theo các cụ già, phải xơi ít nhất 365 hạt thì ước muốn này mới ứng nghiệm.

Đốt "Ngài năm cũ" (Mr.Old Year) là phong tục truyền thống của người dân Columbia. Trong dịp năm mới, mọi người trong gia đình cùng nhau làm một hình nộm rất to gọi là "ngài năm cũ", sau đó họ nhét vào bên trong những thứ không cần thiết, đặc biệt là vật có thể gợi nhớ các kỷ niệm buồn trong năm vừa qua, tất cả sẽ được đốt hết vào lúc giao thừa. Phong tục này thể hiện ước vọng muốn rũ sạch những chuyện không vui của năm đã qua và đón chào năm mới một cách lạc quan của người Columbia.

Ở Mexico, các thành viên trong gia đình thường quây quần tại nhà vào giờ phút đón giao thừa. Khi thời khắc giao hòa giữa năm cũ và năm mới điểm, mọi người chăm chú lắng nghe 12 tiếng chuông nhà thờ ngân vang. Sau từng tiếng chuông, mỗi người lại cho một trái nho vào miệng và thầm cầu nguyện.

Người Hy Lạp thì có phong tục kể cho trẻ em nghe các câu chuyện về lòng nhân ái của Thánh Basil - người đã mang đến cho các em những món quà nhỏ còn gọi là "bánh Thánh Basil". Sau đó, các em nhỏ được tặng loại bánh này, ai nhận chiếc bánh có đồng tiền sẽ là người may mắn.

Ở Tây Ban Nha cũng có tục ăn 12 trái nho khi nghe 12 tiếng chuông nhà thờ lúc giao thừa. Điều thú vị là sau mỗi tiếng chuông, hầu như không ai nuốt kịp hết những trái nho và như thế khi năm mới đến, trong miệng mỗi người đều đang đầy chặt loại quả này. Tục lệ ấy cũng thể hiện niềm mong muốn sang năm mới mọi người sẽ có những vụ mùa nho bội thu.

Tết của Thái Lan hơi đặc biệt bởi nó rơi vào ngày 13/4 hằng năm và kéo dài 3 ngày gọi là tết Songkran và mọi người thường té nước vào nhau để chúc may mắn. Bọn trẻ thường nấp ở những góc phố rồi bất chợt ào ra đổ nước khi có người đi qua. Thanh niên thường đi xe máy hoặc ngồi ôtô tải với những thùng nước trong tay để chúc may mắn cho ai đó bằng cách biến họ thành những con chuột lột, nhưng tất cả mọi người đều rất vui vẻ khi bị ướt sũng như vậy.

Ở bang British Columbia của Canada thì mọi người không phân biệt tuổi tác, giới tính, đều mặc đồ tắm và nhảy xuống dòng nước lạnh như băng khi năm mới đến. Ngày đầu năm ở Canada, quốc gia nằm gần Bắc cực, thường trùng với thời điểm lạnh giá nhất của mùa đông.

Người Ấn Độ có phong tục đón Tết kỳ lạ: vào dịp giao thừa, người ta vây quanh đống lửa ca hát, nhảy múa chào đón năm mới và dùng bột mỳ kỳ cọ cơ thể rồi lao vút vào đống lửa. Ở những nơi công cộng, người ta để sẵn thùng bột màu để mọi người tạt vào nhau. Ai bị bôi bột màu sẽ là người được nhiều hạnh phúc trong năm mới.

Trong khi đó ở Scotland, người dân một số vùng lại có cách đón năm mới toát mồ hôi. Mọi người đốt cháy những thùng có chứa nhựa đường bên trong rồi lăn chúng ra phố hoặc ấn tượng hơn là chuyền cái thùng đang rừng rực lửa đó qua vai những người đàn ông dũng cảm. Theo họ, như vậy năm cũ đã đốt đi và mở đường cho năm mới đến. Người Scotland cũng có tục xông đất như ở Việt Nam. Việc gặp may mắn hay xui xẻo trong năm phụ thuộc vào người đầu tiên bước vào nhà trong ngày đầu năm mới. Theo họ, "đối tượng" có thể mang đến vận hên là những người đàn ông có bộ tóc màu đen và đến nhà bạn khi tay đang cầm một món quà.

Người dân Trung Quốc cũng coi than là bùa hộ mệnh. Một viên than giấu vào giấy đỏ đặt ở ngưỡng cửa được coi là niềm may mắn mang lại hạnh phúc cho cả năm. Riêng ở vùng núi Tây Tạng lại có tục lệ xông nhà vào lúc giao thừa, họ kiêng không dùng người trong nhà để xông đất mà phải là người không thân thích với gia chủ.

Related Posts :

Tục xông đất ngày Tết ở Thanh Hoá

 Tại một số vùng của tỉnh Thanh Hóa, tục xông nhà do tất cả thanh niên của làng phụ trách mà nhiều người đùa là: Cứ thấy nhà nào mở cửa là nhóm thanh niên xông vào chúc tết. Tục xông nhà này cũng gây ra chuyện dở khóc dở cười cho gia chủ.

Trong khi đó, thông thường, xông nhà hay xông đất có ý nghĩa quan trọng trong những ngày tết, nhìn người khách đầu năm mà có thể đón được cuộc sống của gia chủ trong năm mới cho nên gia chủ rất kén chọn vị khách đầu tiên bước chân vào nhà.
Tại làng Đăng Lâu, Thọ Xuân, Thanh Hóa, từ lâu gia chủ đã không còn khái niệm người đến xông nhà là người mau mắn, hợp tuổi với gia chủ, thành đạt về công danh hay trong làm ăn để mang tài lộc đến; hoặc ăn mặc đẹp, mang theo một chút quà tết hay loại trừ những người gia cảnh khó khăn, đạo đức không tốt hay gia đình đang có chuyện buồn thì phải kiêng cữ…; mà chuyện xông nhà do thanh niên trong làng phụ trách.

Chiều tất niên, thanh niên trong làng tập trung nhau lại, chia nhóm, phân chia “địa bàn” xông nhà để sau giao thừa “hành quân”. Ngay sau giao thừa, mỗi nhóm từ 10 đến 20 thanh niên nam nữ đến gõ cửa từng nhà, hoặc thấy nhà nào điện sáng là “xông” vào. Khi những vị khách đầu tiên đến nhà, dù muốn hay không gia chủ cũng phải mời khách ngồi, rót rượu, bánh mứt mời khách.

Các vị khách vừa “xông” vào nhà vẫn đảm bảo chỉ đến thăm, chúc tết chừng năm mười phút, không ở lại lâu, trưởng nhóm đại diện cầu chúc tết gia chủ, sau đó tất cả nâng ly chúc mừng năm mới. Nếu một thành viên của gia đình có nhã hứng gia nhập đoàn xông nhà thì sẽ xuất hành theo đoàn. Cứ như thế, thành viên của đoàn tăng dần lên, chúc tết khắp các nhà kéo dài đến sáng.

Related Posts :

Cách khử mùi hôi trên thịt



Khử mùi cật heo: cật heo luôn có mùi khai rất khó ăn, vì thế khi mua về, bổ đôi cật ra, bóc hết màng trắng bên trong, dùng dao khứa hình lát chả trên bề mặt cật, sau đó trộn với muỗng canh giấm hay rượu trắng, xóc đều, để một lát, rồi cho vào nước ngâm từ 5 – 10 phút, vớt ra, để ráo.
Thịt bị dính dầu hôi, hoặc thịt có mùi hôi, pha một ít trà thật đặc rồi ngâm miếng thịt khoảng một tiếng đồng hồ, sau đó lấy ra rửa sạch.

Cũng có thể khử mùi hôi bằng cách nấu một xoong nước sôi, sau đó cho vài cọng rơm rồi cho thịt vào luộc tầm 5 phút, trước khi vớt thịt ra, thêm vào xoong nước một muỗng cà phê rượu trắng.

Cách xử lý mùi hôi của ruột heo: ruột heo nếu không biết cách làm sẽ có mùi hôi rất khó ăn. Để xử lý mùi hôi ấy, bạn hãy thực hiện một trong những cách sau:
 - Rửa ruột heo bằng nước sạch, để ráo, bóp với giấm, rượu, gừng, chanh, rồi bỏ vào nội luộc. Nước sôi, vớt ra rửa sạch rồi để ráo.
 - Ruột về lộn trái, lấy bột mì xát thật kỹ rồi xả với nước sạch vài lần.
 - Pha hỗn hợp: giấm ăn, phèn chua, cho vào ruột bóp kỹ, rửa bằng nước sạch.

Để không còn mùi gà, vịt khi nấu: gà, vịt dù làm sạch vẫn có mùi lông của nó, muốn khắc phục tình trạng này, bạn hãy dùng giấm hoặc muối thoa lên mình gà hoặc vịt khoảng 15 phút, sau đó rửa sạch, để ráo, mùi lông sẽ biến mất.

Để kho cá ngon không tanh: để nồi cá kho ngon, không còn tanh mùi cá, khi kho hãy cho vào nồi một ít nước trà.

Khử mùi gây của dê: khi nấu nướng, bạn có thể cho vào nồi củ cải trắng có đục lỗ nhỏ.lúc ăn vớt củ cải bỏ đi, sau khi ăn nên dùng một tách trà.

Cách làm trắng dầu mỡ đã sử dụng: khi chiên, dầu mỡ thường bị cháy đen, để giữ cho dầu mỡ được trắng như chưa sử dụng, hãy cho vào vài miếng khoai tây sống.

Để không còn mùi tanh khi chiên thịt: đối với những loại thịt không còn tươi, thường có mùi tanh rất khó chịu khi chế biến. muốn khắc phục tình trạng này, bạn hãy bỏ vào bếp một cục đường, mùi đường khét sẽ đánh tan mùi tanh của thịt.

Related Posts :